Cuối năm 2014, sử thi của người M’nông (Đắk Nông) - Ót N’drong được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây là sự ghi nhận về những giá trị văn hóa to lớn mà kho Ót N’drong đóng góp cho văn học dân gian Việt Nam. Cùng với đó, đặt ra nhiều thách thức lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của sử thi M’nông
Kho sử thi đồ sộ bậc nhất Tây Nguyên
Ót N’drong - một thể loại tự sự dân gian truyền miệng, được lưu giữ trong trí nhớ của người dân và thường được diễn xướng trong các dịp sinh hoạt cộng đồng. Năm 1988, lần đầu tiên Viện Nghiên cứu văn hóa phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Đắk Lắk tổ chức điều tra, sưu tầm văn hóa dân gian các dân tộc trong tỉnh, trong đó sử thi là một mục tiêu quan trọng. Nhóm điều tra, sưu tầm đã phát hiện hệ thống đồ sộ sử thi của người M’nông, mà từ đó đến nay vẫn chưa xác định được chính xác số lượng tác phẩm của hệ thống sử thi này. Dự án Điều tra sưu tầm, bảo quản, biên dịch, sản xuất và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên đã được Chính phủ giao cho Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên thực hiện việc tổng điều tra toàn bộ trữ lượng sử thi các tộc người bản địa sinh sống trong trên địa bàn Tây Nguyên và kề cận; Sưu tầm các sử thi đang được các nghệ nhân lưu giữ trong trí nhớ và truyền miệng; biên dịch và xuất bản thành 75 tác phẩm sách sử thi của các tộc người dưới hình thức song ngữ tiếng dân tộc và tiếng phổ thông; bảo quản kho tàng sử thi Tây Nguyên dưới dạng băng tiếng, băng hình, văn bản...
Sử thi M’nông - Ót N’drong được tạo nên từ hàng ngàn câu văn có vần điệu, một thể loại văn học truyền miệng với những câu chuyện mang đậm nét thần thoại về các hiện tượng tự nhiên, nhân vật lịch sử ... Sử thi là sự hòa trộn của ngôn ngữ với giai điệu của thơ ca, chứa đựng nhiều hình ảnh mang tính biểu cảm sâu sắc. Hát kể sử thi đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người M’nông. Trong đó, nghệ nhân có thể nhớ tới hàng vạn câu sử thi, họ có giọng hát hay và tài diễn tấu độc đáo để lưu truyền hát kể sử thi cho con cháu nghe.
Đưa sử thi vào trường học như một sinh hoạt văn hóa. Trong ảnh: CLB cồng chiêng Trường Dân tộc nội trú Đắk Mil
Sử thi M’nông được xem là cuốn bách khoa tri thức của người M’nông. Trong đó chứa đựng từng hơi thở về cuộc sống phong tục, tập quán, luật tục, văn hóa truyền thống... Từng trường đoạn gắn với không gian, môi trường, những bài học về kinh nghiệm sống của các thế hệ trong cộng đồng người M’nông được đúc kết và chuyển tải thành những câu văn vần dễ nhớ, dễ thuộc. Chính vì thế, sử thi được người xưa hát trong mọi sinh hoạt văn hóa, hoạt động hàng ngày của người M’nông. Người hát kể sử thi và người nghe có thể ngồi thâu đêm suốt sáng bên cạnh bếp lửa lung linh, ấm áp.
Lặng lẽ sống cùng sử thi
Giữa bộn bề cuộc sống, có những nghệ nhân vẫn sống lặng lẽ lưu giữ sử thi. Chúng tôi gặp già Y Kai, sinh năm 1941, hiện sống tại bon Yun Yuh, xã Đức Minh (Đắk Mil). Bắt đầu học sử thi từ năm 15 tuổi, đến năm 40 tuổi già đã thuộc khoảng 40 bài sử thi M’nông. Già tâm sự: “Để có thể hát được sử thi thì cái may mắn của già là được sống trong môi trường sử thi. Ngày xưa cuộc sống chủ yếu trên rẫy, ăn ngủ trên rẫy và ở những nơi đó Y Kai được nghe, được học, được giải thích về những câu, những lời hát từ người già trong bon làng. Cái khó của ngày xưa là chỉ có nghe và nhớ nên đòi hỏi người học phải thực sự tâm huyết và thông minh, nghe và nhớ ngay thì mới có thể hát được sử thi”. Mong muốn truyền lại sử thi cho con cháu nên mỗi khi gia đình già Y Kai có dịp sum vầy, quây quần bên nhau già đều hát sử thi cho con cháu nghe như một cách để khơi gợi tình yêu sử thi của con của cháu.
Còn già Y K’rang, sinh năm 1907, hiện ở bon Pi Nao, xã Nhân Đạo (Đắk R’lấp) thì được xem là “báu vật sống của người M’nông” về nhạc cụ, dân ca, sử thi. Giờ đã ở cái tuổi nhớ nhớ quên quên, nhưng già vẫn luôn trăn trở về sử thi, về văn hóa truyền thống dân tộc. Dù trí nhớ không còn tốt nhưng khi được hỏi về sử thi, văn hóa M’nông già lại say sưa kể, say sưa hát…
Những nghệ nhân đam mê và lưu giữ sử thi đều cho rằng ngày xưa họ được sống trong lễ hội, được sống trong những câu hát sử thi của cha, của ông, của bà. Từ câu hát ru đến những hoạt động đời thường được chìm đắm trong môi trường sử thi để “thấm”, thích, nhớ và học theo. Còn hiện nay, có bao nhiêu lần nghệ nhân được hát, bon làng, người trẻ mấy ai được nghe sử thi? Câu trả lời cũng khiến nhiều người giật mình. Nếu nhìn từ các hoạt động văn hóa liên quan tới đồng bào các dân tộc M’nông hàng năm thì hiện nay sử thi đang ẩn ở đâu đó và đang dần bị mai một, đất cho sử thi “sống” và phát triển ngày càng ít và gần như không còn. Thị Mai, sinh năm 1974 (bon Bu Prâng, xã Đắk N’Drung - Đắk Song) là một nghệ nhân trẻ nhưng được tiếp cận với rất nhiều bài sử thi, có một thời gian dài được làm việc với cha là cố nghệ nhân Điểu Kâu, trăn trở: “Giờ đây, môi trường để diễn xướng sử thi gần như không còn, trong những hoạt động văn hóa truyền thống của bon làng người ta không dành thời gian cho việc diễn xướng nữa”. Không có dịp để hát sử thi, vậy thì làm sao truyền dạy được, làm sao có người yêu thích?
Đưa sử thi M’nông vào trường học
Sau những lo toan của cuộc sống, nghệ nhân Thị Mai vẫn dành thời gian để nghe lại những băng ghi âm mình thực hiện được, xem lại những tập sử thi đã biên dịch để nhớ. Với những tài liệu đã sưu tập được, Thị Mai đang hệ thống lại để có thể tìm những cách thức tốt nhất truyền dạy cho những người đam mê hát sử thi. Trăn trở về thế hệ tiếp nối truyền thống, chị đã thực hiện một cuộc thăm dò, tìm những người muốn hát sử thi và dự định sẽ mở một lớp học hát sử thi vào ban đêm để tìm kiếm một thế hệ kế cận. Hiện chị đã sưu tầm đủ tư liệu và đang ấp ủ việc xây dựng thành sách giáo khoa để dạy các em, trong đó chuẩn bị những tài liệu để xây dựng một môn học gọi là sử thi cho tất cả học sinh các cấp học. Học sử thi theo nhóm tuổi, ví dụ như: thơ ru con dạy cho học sinh lớp 1 đến lớp 5, hát về các hoạt động giao lưu, giao tiếp, ăn ở, sinh hoạt truyền thống dạy cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, hát sử thi dạy cho học sinh lớp 10 đến lớp 12. Chị tâm sự: “Sử thi được thể hiện khá rõ ràng và có thể sắp xếp theo độ tuổi. Nếu được đưa vào trường học sẽ có thể dễ dàng phát triển sử thi cho học sinh các dân tộc M’nông”. Hiện nay, nhiều sử thi được in thành sách. Đây là lợi thế cho việc truyền dạy vì các em không cần phải học thuộc và chỉ cần nhìn vào chữ có sẵn và hát. Trước khi học bài nào người hướng dẫn cắt nghĩa những từ cổ, những từ “khóa” để các em hiểu và tiếp thu nhanh hơn. Nếu làm theo cách này, sử thi có thể sống được và tiếp nối trong cuộc sống hiện nay.
Nghệ nhân Thị Mai với mong muốn truyền dạy và đưa sử thi vào trường học
Khó khăn nhất của sử thi là rất đồ sộ, bao gồm mọi hoạt động, cuộc sống của con người. Chính vì thế muốn học được sử thi phải có một quá trình, cần sự kiên nhẫn của người học, người dạy cũng phải biết sắp xếp sao cho phù hợp thì mới mong có người học được. Theo ông Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Nông: “Về văn hóa truyền thống các dân tộc, thời gian qua tại các trường dân tộc nội trú đang duy trì các CLB cồng chiêng. Sở đã thực hiện việc phối hợp với các nghệ nhân mở lớp và duy trì các đội chiêng ở các trường học. Nếu đưa sử thi M’nông vào trường học như một hình thức sinh hoạt văn hóa dành cho các em người M’nông thì hoàn toàn có thể thực hiện được. Sở rất ủng hộ ý tưởng đưa sử thi M’nông vào học đường. Ở góc độ trường học, các CLB, các hoạt động sinh hoạt này sẽ mang tính chất trang bị kiến thức, giới thiệu, tạo môi trường để học sinh tiếp cận văn hóa truyền thống, qua đó, học sinh có đam mê, muốn tìm hiểu văn hóa truyền thống dân tộc có thể phát huy. Để có thể thực hiện trong nhà trường thì cần nghệ nhân có thể truyền dạy thì hoàn toàn có thể đưa vào trường học, trước tiên là một hoạt động sinh hoạt văn hóa, sau đó có thể nhân rộng và phát triển. Môi trường học đường hoàn toàn có thể đón nhận thêm những hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống các dân tộc. Nếu làm tốt sẽ tạo ra một thế hệ kế cận và tiếp bước các nghệ nhân hát sử thi M’nông”.
HOÀNG ĐỨC HÙNG