Mạnh ai nấy làm
Theo thông tin từ Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, hiện nay, tại một số địa phương như Hà Giang, Lào Cai, Sơn La và Quảng Nam đã hoàn thành các bản đồ chi tiết với tỷ lệ 1:10.000, cho phép xác định khu vực, địa điểm có nguy cơ lũ quét và sạt lở đất đến từng cấp xã. Chẳng hạn, các huyện Mèo Vạc và Quản Bạ (Hà Giang), Sa Pa và Bát Xát (Lào Cai) cũng như các huyện Nam Trà My và Bắc Trà My (Quảng Nam) đã có bản đồ phân vùng nguy cơ chi tiết. Điều này giúp chính quyền và người dân chủ động theo dõi, phòng ngừa thiên tai.
Tuy nhiên, ở nhiều địa phương khác, quá trình lập bản đồ chi tiết vẫn chưa hoàn thiện. Điều này dẫn đến sự không đồng đều trong dự báo và phòng ngừa thiên tai, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả ứng phó thiên tai ở các địa phương. GS-TS Đỗ Minh Đức (Khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội) cho biết, tại cấp địa phương, gần như tiện ai nấy làm, phụ thuộc vào chủ trương hoặc dự án của địa phương.
Theo các chuyên gia, thiếu đồng bộ giữa các cơ quan chuyên môn ở trung ương là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này ở địa phương. Ở cấp trung ương, một số chuyên gia địa chất cũng chia sẻ, hiện nay việc lập bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất đang do nhiều cơ quan khác nhau thực hiện, như: Cục Địa chất (Bộ TN-MT), Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản và cả Tổng cục Khí tượng - thủy văn. Mỗi cơ quan lại sử dụng phương pháp và công nghệ khác nhau để xác định bản đồ sạt lở, lũ quét. Kết quả là những bản đồ hiện nay thường rời rạc, không bao phủ được đầy đủ các nguy cơ, dẫn đến khả năng dự báo thiếu chính xác các hiện tượng lũ quét và sạt lở đất.
Sớm có bản đồ tổng thể
GS-TS Đỗ Minh Đức cho biết, để tiếp tục hoàn thiện năng lực cảnh báo và phòng ngừa nguy cơ lũ quét, sạt lở đất ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1262/QĐ-TTg năm 2023, phê duyệt Đề án “Cảnh báo sớm sạt lở đất và lũ quét tại khu vực miền núi và trung du Việt Nam”. Mục tiêu của đề án này là hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất cho 37 tỉnh ở miền núi và trung du hiện nay.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia địa chất, Quyết định 1262/QĐ-TTg vẫn giao cho nhiều cơ quan cùng thực hiện đề án này. Cục Địa chất và Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản sẽ chịu trách nhiệm điều tra và lập bản đồ phân vùng nguy cơ; Tổng cục Khí tượng - thủy văn sẽ cung cấp các dữ liệu về khí tượng thủy văn nhằm hỗ trợ cảnh báo sớm.
Đề án cũng kêu gọi hợp tác quốc tế để áp dụng công nghệ tiên tiến từ các nước khác, nhằm nâng cao khả năng dự báo và cảnh báo thiên tai. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại như viễn thám và dữ liệu thời gian thực sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng dự báo chính xác hơn trong thời gian tới.
“Việc có một bản đồ chung và thống nhất cho cả nước, đồng thời chi tiết đến từng thôn, xã là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Dựa trên bản đồ chi tiết này, chính quyền các địa phương mới có căn cứ để di dời, sắp xếp dân cư, triển khai nhiệm vụ phòng chống thiên tai; đồng thời làm cơ sở để xây dựng các bản đồ quy hoạch khác liên quan, như quy hoạch khu dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, thủy lợi, điện…) một cách lâu dài, ổn định”, GS-TS Đỗ Minh Đức chia sẻ.
Tuy nhiên, để dự án lớn này thực sự mang lại hiệu quả, PGS-TS Tạ Đức Thịnh, Chủ tịch Hội Địa chất công trình và môi trường Việt Nam, cũng như một số chuyên gia địa chất đề nghị, cần một cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất về xây dựng và quản lý bản đồ các khu vực có nguy cơ thiên tai của quốc gia, nhằm tránh tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan.
Theo đại diện Trung tâm Dự báo khí tượng - thủy văn quốc gia, việc cảnh báo sạt lở và lũ quét lâu nay chỉ dựa trên chỉ số lượng mưa, còn các chuyên gia khí tượng không nắm được thực tế ở khu vực mưa lớn tại thời điểm đó ra sao (từ thực trạng rừng, độ dốc, cấu tạo địa chất đến mật độ công trình xây dựng, dòng chảy và vật cản…). Do đó, để đảm bảo hiệu quả và đồng bộ trong hệ thống cảnh báo lũ quét và sạt lở đất tại Việt Nam, cần phải có một chiến lược rõ ràng để hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo quốc gia.