1. Khi chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, anh Ba Thu (Phan Cẩm Xã, Phó ban Cơ yếu T4) và tôi được phân công phụ trách một bộ phận cơ yếu thuộc Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam Sài Gòn (Tiền phương II). Liền sau đó, chúng tôi hành quân đến vùng đất Ba Thu nằm chờ lệnh xuất quân “tiến về Sài Gòn”.
Những ngày trú đóng ở Ba Thu, lòng tôi (cũng như mọi đồng chí, đồng đội) thấy nôn nao khó tả, phần vì chờ lệnh xuất quân, phần vì tiết xuân đang đến. Rồi, cái gì đến ắt đến. Chiều 30 Tết, lệnh xuất quân ban hành. Đoàn quân rầm rập hành quân dưới ánh sao đêm. Trước giờ G, chúng tôi chuyền nhau nghe thư chúc tết của Bác Hồ. Trên đường “tiến về Sài Gòn” sau giờ G, nhìn lên trời chỉ thấy một chiếc máy bay bay trên cao rồi biến mất. Bà con đón quân ta trao tay bánh tét, thức ăn, thức uống, cặp kè những chiếc ghe nối nhau làm cầu cơ động cho quân ta vượt sông rạch. Khuya hôm đó, cơ yếu, điện đài chúng tôi mang biệt danh là “bộ đội 2 súng”, đến trú đóng tại ấp 2 Tân Nhựt, cặp sông Chợ Đệm, còn đại bộ phận qua đóng quân bên kia sông.
7 giờ sáng hôm sau, tôi đi qua nơi đóng quân của điện đài cách chỗ tôi mấy chục thước, nhưng thấy các đồng chí chưa thức nên tôi tranh thủ ra ngồi cầu tiêu bắc cặp bờ sông. Tôi mới ngồi chừng vài phút, bỗng thấy tàu địch chạy xập xình trên sông Chợ Đệm cặp bờ, tôi vừa chạy tới nơi trú đóng thì địch dưới tàu bắn xối xả. Tôi quyết định giao tài liệu mật mã của tôi, của Út Tưởng, của Thanh Vân cho anh Ba Thu và các đồng chí khác mang chạy về hướng lực lượng chủ lực của ta đóng quân. Còn tôi, Út Tưởng và Thanh Vân trụ lại chiến đấu để ngăn cản địch cho các đồng chí rút lui bảo vệ tài liệu được an toàn. Khi anh em tôi vừa tuột xuống mương vườn sau nhà thì hàng ngàn quân địch dưới tàu đổ bộ lên bờ. Trực thăng quần trên đầu ào ào, sà cánh đổ quân. Lúc này trong đầu tôi chợt nghĩ ngay rằng chỉ còn cách đổi mạng nhưng phải “có lãi”, rằng “tao chết thì tụi mày phải nhiều thằng chết”.
2. Tôi vừa ra lệnh, vừa quay nòng súng AK lên bắn. Cả 3 anh em chúng tôi đều bắn. Lập tức 2 chiếc trực thăng đầy quân Mỹ bốc cháy. Thật sự là chúng tôi chỉ quay nòng súng AK lên bóp cò, không cần ngắm vì trực thăng sà xuống cách đầu chúng tôi chỉ khoảng chục mét. Tôi ôm súng vọt lên bờ tiếp tục siết cò thì bị một mảnh đạn ghim vào đầu! Út Tưởng liền kéo tôi xuống mương… “Chưa chết, lời rồi” - tôi nhẩm trong đầu như vậy. Hai chiếc trực thăng bốc cháy, màu khói đen nghịt, chính nó che chắn không cho địch thấy chúng tôi rời khỏi công sự (mương vườn) vượt qua con rạch, rồi bò cặp dưới rạch vào địa hình lá dừa nước.
Lúc này 3 anh em chúng tôi không phải bò nữa mà lội chuyền trong rừng dừa nước, giờ không nghe tiếng súng mà chỉ nghe tiếng máy bay trực thăng đổ quân xuống đồng trống ruộng lúa vừa mới gặt trước tết. Tôi ban lệnh vừa lội, vừa nghỉ chân cho đỡ mệt, vừa nhắm hướng rút đi khi địch rút quân.
Trong lúc di chuyển và suy tính thì chúng tôi phát hiện có một cái chòi khoảng 5 mét vuông, kiểu nhà sàn ẩn trong rừng lá dừa nước. Anh em chúng tôi nhẹ nhàng lục soát mới biết đây là “kho súng” tạm của ta cất giấu, có thể là kho trung chuyển trước khi chuyển đến nơi được cấp phát. Mừng quá! Vậy là 3 anh em chúng tôi có thừa súng đạn để chiến đấu quyết tử với địch rồi. Tôi quyết định móc đất làm công sự dã chiến trụ lại đây. Vừa đắp xong 3 công sự cách nhau vài thước cho 3 anh em thì mặt trời đã ngả xế chiều. Tôi thấy đói và buồn ngủ vô cùng, bởi từ khuya tới giờ có ăn uống ngơi nghỉ gì đâu.
Công sự của chúng tôi cặp bìa rừng lá, phía trước mặt là đồng ruộng trống, từ đây có thể quan sát được nhất cử, nhất động của địch, để chủ động đối phó. Tôi nói với Út Tưởng và Thanh Vân rằng, khi nào tình huống bắt buộc, tôi nổ súng trước thì hai người mới được nổ súng, bây giờ bảo đảm an toàn tính mạng là trên hết. Chúng tôi quan sát thấy lính Mỹ lăm lăm khẩu AR15 trên tay lội đi lùng sục. Hơn chục tên lội cặp bìa rừng lá, mặt đỏ gay vì nắng nóng, cách công sự chúng tôi chừng 6-7 thước, miệng lẩm bẩm “vixi, vixi”, tưởng như bọn chúng phát hiện anh em chúng tôi. Nếu siết cò thì chắc chắn vài ba lính Mỹ chết nhưng 3 anh em chúng tôi cũng khó sống, mà nằm yên cũng lo…
3. Đến khoảng hơn 16 giờ, nghe tiếng máy tàu trên sông Chợ Đệm cùng tiếng trực thăng gầm rú chát tai, tôi đoán là địch chuẩn bị ra quân. Tôi nói với Út Tưởng và Thanh Vân nhanh chóng rời khỏi địa hình này. Lúc này nước đã lớn đầy, 3 anh em chúng tôi vừa rong theo con rạch vừa quan sát. Bỗng pháo từ Bến Lức cấp tập nã vào nơi chúng tôi đang di chuyển, và Thanh Vân hy sinh.
Tôi bàn với Út Tưởng, quyết định lùi lại công sự tạm, nằm đợi trời xẩm tối hãy tìm cách nhập đoàn quân tiếp tục vào Sài Gòn. Địch rút hết, mặt trời đã lặn. Chúng tôi gặp được một số đồng chí điện đài may mắn còn sống. Sau khi gặp một gia đình để nhờ bà con chôn cất các đồng chí hy sinh, chúng tôi xuống ghe qua sông Chợ Đệm, băng đồng về hướng Phú Lâm. 10 giờ đêm đó chúng tôi đến Phú Lâm, qua quận 7 (cũ). Lúc này, hầu hết gia đình dân quận 7 đã sơ tán vào sâu nội thành Sài Gòn. Gần trưa ngày hôm sau, tôi bắt liên lạc được với một số đồng chí, báo cáo tình hình và nhận nhiệm vụ.
Gần nửa đêm hôm đó, chúng tôi đặt chân đến trận địa cũ, cảm nhận một cảnh vật chìm trong đêm vắng, lạnh lùng, ảm đạm! Chúng tôi tìm gặp vài gia đình ở đó, bà con cho biết hôm qua đã chôn cất 13 đồng đội hy sinh nằm ven bờ cây. Chúng tôi nghẹn ngào nhìn Thanh Vân nằm sát bụi lá dừa nước đã 2 ngày đêm, chắc Thanh Vân lạnh lắm. Sau khi chôn cất, gửi gắm các đồng chí cho bà con, chúng tôi chờ trời tối qua sông Chợ Đệm trở vào Sài Gòn…