Những ẩn ý của ngôn từ
Mở cửa cho chúng tôi là một ông cụ cao gầy, quắc thước và rất nhanh nhẹn. Thoạt trông, không ai nghĩ ông đã ở cái tuổi sắp 90. “Không sao, cứ đi cả giày vào, tôi sống có một mình ở đây thôi”, ông cười niềm nở. Khi bước vào, căn phòng khách của căn hộ tập thể rộng chừng 15m2, được “trang trí” bằng tràn ngập sách và ảnh. Nó như một kho lưu trữ ký ức và thời gian về những năm tháng cuộc đời làm trong ngành ngoại giao của chủ nhân.
Ông là Phạm Ngạc, người phiên dịch cho phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) trong các cuộc đàm phán ở Hội nghị Paris, ở cả các cuộc đàm phán trong hội nghị công khai chính thức lẫn những cuộc tiếp xúc và đàm phán bí mật giữa Hà Nội và Washington. Ông tham gia phiên dịch từ những ngày đầu diễn ra hội nghị (năm 1968) cho đến khi Hiệp định Paris được chính thức ký kết (27-1-1973). Ông cũng là nhân chứng trực tiếp chứng kiến nhiều cuộc đấu trí cam go giữa ta và phía Mỹ trên bàn đàm phán trong suốt quá trình 4 năm 8 tháng ròng rã.
Năm 1968, khi làm phiên dịch cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xuân Thủy trong các cuộc đàm phán tại hội nghị Paris, ông mới 33 tuổi, nằm trong số trẻ nhất đoàn. Ông kể, có lần đến phòng họp để phiên dịch đàm phán, trong thang máy đi lên lầu trên, còn có 2 đại diện của đoàn đại biểu phía Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Khi hỏi chuyện, biết ông là đại biểu của đoàn VNDCCH, một người trong họ nói: “Ông còn trẻ quá” (có ý rằng chưa có kinh nghiệm ngoại giao). Khi đó, ông đã đáp lại: “Các ông đánh giá thấp tôi quá”.
“Bác học ngoại ngữ ở đâu và học từ khi nào?”, tôi hỏi.
“Tôi tự học. Thế hệ chúng tôi phần lớn đều phải tự học cả, làm gì được đào tạo trường lớp như bây giờ”, ông nói.
Hóa ra, ông không chỉ giỏi tiếng Anh mà ông còn rất thông thạo tiếng Trung, tiếng Pháp và cả tiếng Nga. Khi được hỏi trong khi phiên dịch, nhất là phiên dịch trong một hội nghị đặc biệt quan trọng như hội nghị Paris với những cuộc đàm phán đấu trí cân não, cách dịch của ông như thế nào, ông nói rằng tôi dịch thoát ý, dịch theo ý chứ không chỉ khư khư bám vào kiểu “word by word”. Theo ông, làm người phiên dịch không chỉ có vai trò dịch mà còn phải hiểu biết, phải có phông văn hóa rộng thì mới có thể diễn đạt lại thanh thoát, trôi chảy các diễn ngôn.
Trước ông, từng có một người khác làm phiên dịch cho Bộ trưởng Xuân Thủy, nhưng sau một vài lần dịch thì đã bị “vấp”. Một lần, trong một hội nghị công khai, khi Mỹ tiếp tục ném bom miền Bắc, các cuộc đàm phán khi đó bị gián đoạn, một nhà báo quốc tế đã hỏi Bộ trưởng Xuân Thủy rằng: Miền Bắc Việt Nam có còn muốn tiếp tục đàm phán nữa hay thôi? Bộ trưởng Xuân Thủy trả lời rằng: Chúng tôi không câu nệ chuyện ấy. Ý của ông Xuân Thủy là chúng tôi (miền Bắc) vẫn sẵn sàng đàm phán, không ngại gì cả. Nhưng người phiên dịch khi ấy lại không biết cách diễn đạt từ “câu nệ” trong tiếng Việt sang tiếng Anh thế nào cho trôi chảy, nên đã dịch nhầm sang thành “chúng tôi không đàm phán”. Bộ trưởng Xuân Thủy nghe xong đã nhíu mày, biết người phiên dịch đã dịch sai nên ngay lập tức ông đã đính chính lại câu trả lời của mình cho vị nhà báo nước ngoài kia.
Một lần khác là trong một cuộc đàm phán bí mật chỉ có đại diện Hà Nội và Washington do cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn Kissinger làm trưởng đoàn. Cuộc đàm phán được giấu kín và diễn ra trong bí mật. Thế nhưng, ngay khi vừa bắt đầu thì trong phòng lại xuất hiện thêm một nhà báo Mỹ. Khi đó, ông Lê Đức Thọ đã tỏ ý không hài lòng, nói với ông Kissinger: “Tôi nghi ngờ chính phía các ông đã vi phạm thỏa thuận của chúng ta” (trước đó hai bên đã thỏa thuận là đàm phán bí mật, giấu kín). Nhưng khi đó, người phiên dịch của ta lại dịch không đúng ý. Khi nghe dịch, ông Lê Đức Thọ đã không hài lòng. Tuy nhiên, đến khi Phạm Ngạc được thay thế làm phiên dịch chính, thì cả ông Lê Đức Thọ lẫn ông Xuân Thủy đều rất hài lòng. Bởi ông dịch đúng ý người nói, diễn dịch thanh thoát, trôi chảy, thậm chí còn biết dùng cả những ẩn ý.
Cũng nhờ lối dịch của ông mà phía Mỹ đã hiểu rõ hơn quan điểm của Việt Nam, nhất là các nội dung có tính quyết định trong đàm phán. Các bản chép tay tốc ký để dịch của ông trong các cuộc đàm phán, sau mỗi cuộc họp, đều được thu lại và nằm trong số các tài liệu quan trọng mà ông Lê Đức Thọ đem về nước để báo cáo với Bộ Chính trị. Về sau, ông mới được người khác cho biết, nhiều bản ghi tốc ký của ông được xếp vào loại tài liệu tuyệt mật.
Thông điệp ngầm bên hành lang
Vào những năm đầu 1970, các cuộc đàm phán đi vào thế giằng co và bế tắc. Phía Chính phủ VNDCCH kiên quyết giữ vững lập trường của mình đó là người Mỹ phải rút hoàn toàn khỏi Việt Nam; còn phía Mỹ thì ngoan cố, lảng tránh vấn đề. Khi đó, báo chí quốc tế viết rằng, người Mỹ ngừng ném bom để đàm phán và giờ đây họ lại ngừng đàm phán để chuẩn bị ném bom…
Sự ngoan cố của phía Mỹ và VNCH còn thể hiện từ trước đó, ngay giai đoạn đầu của các cuộc đàm phán trong khuôn khổ hội nghị. Ông Ngạc kể, lúc đầu, Mỹ và VNCH đều không công nhận phái đoàn đàm phán đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (trực tiếp là Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam - LTCHMNVN). Họ tuyên bố chỉ đàm phán với phái đoàn đại diện Chính phủ VNDCCH, không công nhận đại diện phái đoàn Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (LTCHMNVN) vì theo họ đây chỉ là “cánh tay nối dài của Bắc Việt”. Do đó, ngay cả khi có phái đoàn đại diện Chính phủ LTCHMNVN ngồi bên, Kissinger cũng chỉ nhìn thẳng vào phái đoàn VNDCCH để nói chuyện. Lúc ấy, chúng ta lại có cách ứng phó lại. Trưởng phái đoàn đàm phán VNDCCH là Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy không phát biểu trước, thay vào đó để cho đại diện phái đoàn Chính phủ LTCHMNVN là bà Nguyễn Thị Bình phát biểu trước, cùng tham gia đối thoại. Ban đầu, phái đoàn Mỹ và VNCH không lắng nghe bà Nguyễn Thị Bình nói, nhưng sau nhiều lần như vậy, họ đã buộc phải nghe. Đó cũng là sự thành công của ngoại giao.
Ông Phạm Ngạc say sưa kể về đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh trong Hội nghị Paris. Ảnh: ĐỖ TRUNG |
Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò trước khi đàm phán, đó là phải ứng phó linh hoạt, phải hiểu đúng nguyên tắc “tuy hai mà một, tuy một mà hai”, nghĩa là cả hai đoàn Chính phủ VNDCCH và Chính phủ LTCHMNVN phải thể hiện vai trò đúng từng thời điểm và tùy hoàn cảnh đàm phán.
Nhưng, nói vậy cũng không phải là không có những người Mỹ yêu chuộng hòa bình và có thành ý với Việt Nam. Ngay trong phái đoàn Mỹ cũng có những người mong muốn hòa bình. Ông kể, khi đàm phán, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao VNDCCH là ông Nguyễn Cơ Thạch đã đặc biệt chú ý đến một người là trợ lý về pháp lý, đại diện cho Quốc hội (lưỡng viện) Mỹ của phái đoàn Mỹ. Ông Thạch nói riêng với ông: “Cậu hãy chú ý người này”.
Lúc nghỉ giải lao giữa cuộc đàm phán, khi dùng cà phê ngoài hành lang, ông đã đứng trò chuyện với vị đại diện cho Quốc hội Mỹ. Vị này đã nói với ông: “Ở Mỹ, khi ôm hôn tạm biệt con trai để sang đây đàm phán với các ông, con trai tôi nói với tôi rằng con không muốn có chiến tranh, con muốn hòa bình”. Ông đã kể chuyện này với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch cười tươi bảo: “Đó là tín hiệu tốt”. Ông kể: Về sau, tôi mới được biết, ông Thạch chú ý đến vị đại diện pháp lý Quốc hội Mỹ trong đoàn đàm phán vì ông muốn qua thái độ của ông ta để đoán xem quan điểm của Quốc hội Mỹ đối với hội nghị Paris, với cuộc chiến tranh ở Việt Nam như thế nào. Lời nói của vị đại diện Quốc hội Mỹ trong lúc cà phê giải lao bên hành lang khi ấy cũng có thể xem là tín hiệu ngầm được bắn đi của Quốc hội Mỹ, rằng họ đã quá mệt mỏi, họ không muốn kéo dài thêm cuộc chiến. Nhận định này về sau đã được chứng minh hoàn toàn chính xác. Sau Hiệp định Paris 1973, Quốc hội Mỹ đã cắt giảm các khoản viện trợ khổng lồ mà trước đây vẫn “bơm” cho VNCH. Thậm chí, ngay cả khi trúng cử tổng thống lần hai, Nixon lật lọng, muốn kéo dài thêm cuộc chiến, song Quốc hội Mỹ đã khước từ.
Nhưng vào thời điểm ấy, việc nắm bắt và “giải mã tín hiệu ngầm” nói trên của Quốc hội Mỹ có ý nghĩa rất quan trọng trong đàm phán của chúng ta. Từ đó, chúng ta càng kiên quyết và chủ động tấn công trên bàn ngoại giao, bảo vệ vững chắc lập trường và quan điểm đúng đắn của mình, khiến Mỹ phải xuống thang và chấp thuận các điều khoản mà ta đưa ra, đi đến ký kết hiệp định.
Đối thủ nể phục
Sau 50 năm, một quãng thời gian đủ dài để có thể nghiền ngẫm, xem xét một sự kiện lịch sử từ nhiều khía cạnh, theo ông Ngạc, Hiệp định Paris năm 1973 là một cột mốc quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh là theo nguyên tắc độc lập, tự chủ, tránh sự can thiệp của nước lớn. Có một điều rất đáng chú ý - và cũng có thể nói là khác biệt giữa Hiệp định Paris năm 1973 với Hiệp định Geneve năm 1954 đó là sự độc lập, tự chủ trong đàm phán ngoại giao của Việt Nam. Nếu như năm 1954, các cuộc đàm phán có sự góp mặt của Liên Xô và Trung Quốc thì năm 1973 tại hội nghị Paris, các cuộc đàm phán chỉ có phía VNDCCH và sau này có thêm Chính phủ LTCHMNVN chủ động đàm phán. Điều này vừa thể hiện sự trưởng thành về ngoại giao cũng như đã chứng minh được đường lối đúng đắn về ngoại giao độc lập, tự chủ, tránh sự can thiệp của bên ngoài gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của dân tộc.
Chính sự độc lập, tự chủ trong đàm phán ngoại giao của ta đã khiến phái đoàn Mỹ cũng rất tôn trọng. Trưởng đại diện đoàn đàm phán của Mỹ khi ấy là ông Henry Kissinger đã tặng quà cho hai đại diện trong đoàn đàm phán của Việt Nam. Biết Bộ trưởng Xuân Thủy là người rất chỉn chu trong tác phong và ăn mặc, nên khi tặng quà, phía Mỹ đã tặng ông Xuân Thủy một chiếc cà vạt, còn ông Lê Đức Thọ thì họ đã tặng ông một chiếc bút.