Trong bối cảnh tín dụng ngân hàng bị kiểm soát vào các kênh rủi ro, trong đó có bất động sản, BOT, BT, chứng khoán thì kênh TPDN là cứu cánh của rất nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này thời gian qua. Cùng với đó, thị trường TPDN phát triển sẽ góp phần đa dạng hóa kênh đầu tư, góp phần hạn chế tình trạng vàng hóa, đô la hóa trong nền kinh tế.
Hiện TPDN chiếm khoảng 22,7% tổng lượng vốn cung ứng cho nền kinh tế mỗi năm, còn nguồn vốn huy động qua phát hành cổ phiếu chỉ chiếm 3,5% tổng lượng vốn đưa ra nền kinh tế. Quy mô phát hành TPDN trên thị trường sơ cấp năm 2021 đã vươn lên gần bằng giá trị cho vay mới trung và dài hạn của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Theo TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, hàng năm, hệ thống ngân hàng đưa ra nền kinh tế 1,4-1,5 triệu tỷ đồng, nhưng chỉ 45% trong đó là vốn trung dài hạn. Hiện nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế rất lớn, ước tính giai đoạn 2022-2025, nền kinh tế cần 3,15 triệu tỷ đồng/năm để đầu tư toàn xã hội. Trong khi vốn nhà nước chỉ chiếm 25%-26%, còn lại phải huy động nguồn lực bên ngoài nên vai trò của thị trường vốn nói chung và thị trường TPDN nói riêng rất quan trọng.
Hiện quy mô vốn hóa của thị trường TPDN Việt Nam tương đương 17,5% GDP, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan... Hiện thị trường này còn nhiều dư địa để tăng trưởng nên theo các chuyên gia, đừng vì những vụ việc như ở Công ty Tân Hoàng Minh và các doanh nghiệp phát hành TPDN “3 không” (không được đánh giá tín nhiệm, không bảo lãnh thanh toán, không tài sản bảo đảm) trên thị trường trở thành “con sâu làm rầu nồi canh”, đưa thị trường TPDN vào tình trạng đông cứng với hàng loạt động thái “siết chặt” của cơ quan quản lý.
Điều quan trọng là các cơ quan chức năng cần nhanh chóng xử lý các doanh nghiệp làm ăn sai trái nhằm củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để thị trường TPDN phát triển bền vững.
Cụ thể là làm sao để các thông tin phát hành trái phiếu của doanh nghiệp phải minh bạch, báo cáo tài chính đầy đủ, có tài sản bảo đảm. Ngoài ra, cần đẩy mạnh hoạt động xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp trước khi phát hành trái phiếu nhằm giảm rủi ro cho nhà đầu tư.