Để chống suy giảm tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội, Chính phủ đang triển khai các gói kích cầu khoảng 6 tỷ USD, bằng khoảng 6% GDP, với kỳ vọng tăng thêm 1% GDP. Theo đó, gói kích cầu thứ nhất 17.000 tỷ đồng lấy từ nguồn dự trữ quốc gia, được sử dụng để bù lãi suất ngân hàng cho các doanh nghiệp (DN) vay vốn sản xuất, làm hàng xuất khẩu… Với việc bù 4% lãi suất vay ngân hàng, Chính phủ quyết tâm huy động được nguồn vốn xã hội khoảng 420.000 tỷ đồng vào sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, giải quyết việc làm.
Tiếp đó, các giải pháp tài chính với hàng loạt chính sách miễn giảm, giãn và điều chỉnh nhiều sắc thuế sẽ để lại cho cộng đồng DN và dân cư trên 10.000 tỷ đồng để kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Bên cạnh đó, khoảng 36.000 tỷ đồng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 4. Nguồn vốn này được sử dụng phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, nhà ở công vụ cho giáo viên vùng sâu, y tế tuyến huyện, các bệnh viện chuyên khoa ung bướu, nhi, lao phổi…
Tuy nhiên, trong giải pháp kích cầu của Chính phủ, vị trí của ngành CNTT còn khiêm tốn, trong khi CNTT có vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, bền vững. Trong chừng mực nào đó, có thể coi hạ tầng CNTT của Việt Nam hiện nay là một trong những “điểm nghẽn tăng trưởng” của nền kinh tế.
Được biết, trong gói kích cầu 787 tỷ USD của Mỹ, có 0,91% dùng phát triển băng thông rộng, 2,8% ứng dụng CNTT trong y tế, 1,7% đầu tư ứng dụng CNTT trong sử dụng hợp lý và tiết kiệm năng lượng và 1,5% đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ. Malaysia dành 1,7 tỷ USD trong gói kích cầu 19 tỷ USD để xây dựng thư viện điện tử, trung tâm cộng đồng băng thông rộng với mục tiêu đến năm 2010, nâng gấp 2 lần số hộ kết nối internet (từ 21% lên 50%) và cấp 4 giấy phép WiMAX phủ sóng 40% số hộ vào cuối năm 2009.
Người ta cũng tính được rằng, phát triển băng thông rộng, giá trị tăng thêm của cộng đồng sẽ gấp 18 - 20 lần so với lợi ích của nhà khai thác mạng (nếu chậm trễ trong phát triển mạng, cứ 3 năm giá trị tăng thêm sẽ giảm 25%).
Đơn cử như sau 3 năm phát triển kết nối internet, với nguồn vốn 7 triệu USD, bang Kentucky (Mỹ) đã tăng số hộ kết nối internet băng thông rộng từ 60% năm 2005 lên 97% năm 2008, mang lại 63.000 việc làm mới với tổng thu nhập từ lương 2,1 tỷ USD, tiết kiệm 22,6 triệu USD tiền khám chữa bệnh, 92,1 triệu USD tiền xăng xe hàng năm, giảm 46,7 triệu galon khí thải carbon hàng năm. Nếu tính chung cả nước Mỹ, hiệu quả mang lại khoảng 134 tỷ USD.
Vì vậy, với tiềm năng phát triển còn rất lớn, đây có thể là cơ hội để tạo sự đột biến trong phát triển hạ tầng CNTT và ứng dụng CNTT vào đời sống kinh tế - xã hội. Chính phủ có thể nghiên cứu đưa vào gói kích cầu việc phát triển internet băng thông rộng ở vùng sâu, vùng xa, phục vụ thương mại trực tuyến, theo dõi thị trường nông sản và vật tư nông nghiệp, tư vấn khuyến nông, khuyến ngư (lồng ghép trong chương trình kích cầu ở nông thôn, hỗ trợ nông dân).
Đó cũng có thể là các chương trình ứng dụng CNTT trong chẩn đoán và khám chữa bệnh từ xa (có thể lồng ghép trong chương trình trái phiếu Chính phủ về y tế), trong học tập và giảng dạy (lồng ghép với chương trình kích cầu giáo dục, hỗ trợ lãi suất cho sinh viên vay) hay trong chỉ đạo, điều hành trực tuyến hoạt động của nhà nước, tuyên truyền phổ biến chính sách, thông tin về môi trường và phòng chống thiên tai, dịch bệnh, nguy cơ biến đổi khí hậu… Khi đó, hàng triệu máy tính và hạ tầng CNTT, viễn thông sẽ được đầu tư, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia.
Vì vậy, ngoài những chính sách về miễn, giãn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hoàn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất nhập khẩu… cho các DN vừa và nhỏ, DN sản xuất hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, cho nông nghiệp, nông thôn; ngoài những chính sách hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh cho DN vay của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, chúng ta cần có những gói kích cầu riêng cho ngành CNTT.
Tiến sĩ Trần Văn