Không gian mở của người thành phố

Trước 1990, ở TPHCM hầu như tất cả các công sở, trường học, nhà dân đều kín bưng. Mỗi đơn vị ở dù là của tư nhân hay công cộng, đều được xây dựng theo xu hướng phòng thủ rất kỹ càng. 
Thành phố vốn dĩ là một tổ chức vật chất được nén chặt trong một không gian hẹp. Điều gì sẽ xảy ra nếu giữa các công trình không có khoảng hở, các công sở, nhà ở đóng kín bưng như những chiếc hộp, cuộc sống của con người chỉ là sự xê dịch giữa cái hộp này tới cái hộp khác cho đến cuối đời? 
Từ xu hướng đóng
Trước 1990, ở TPHCM hầu như tất cả các công sở, trường học, nhà dân đều kín bưng. Mỗi đơn vị ở dù là của tư nhân hay công cộng, đều được xây dựng theo xu hướng phòng thủ rất kỹ càng. Có thể đó là sản phẩm của chiến tranh để lại, có thể do lo sợ bị trộm cắp, cũng có thể đơn giản là không muốn người khác tò mò nhìn vào nhà mình, khiến cho nhà nào, công sở nào nhìn vào cũng thấy bít bùng kín đáo “kín cổng cao thành”. Tường chắn trước hay vây quanh nhà được xây bằng gạch tô xi măng cao hơn đầu người, trên đỉnh tường còn chăng dây thép gai, rào bằng lưới sắt chống B40, cắm chi chít mảnh chai, mảnh sành vỡ; cổng nhà làm bằng sắt nặng nề kín mít không một khe hở và không ít nhà ngay sau cửa sắt là con chó to như con bê. Thời ấy, sân chung trong mỗi khu tập thể cũng bị âm thầm tư nhân hóa, phân chia thành các không gian riêng và bị quây lại thành bếp, chỗ để xe, chỗ nuôi gà, heo. Thậm chí tình trạng phòng thủ này cũng diễn ra ở các nơi không gian công cộng dành cho tất cả mọi người như công viên, vườn dạo, nhà thờ, chùa chiền. 
Không gian mở của người thành phố ảnh 1 Không gian mở trước UBND TPHCM. Ảnh: VIỆT DŨNG
Sang xu hướng mở
Sau năm 1990 tình hình đổi khác. Dường như cả thành phố chuyển dần từ xu hướng đóng sang mở trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, quan hệ quốc tế, văn hóa, giáo dục, quan hệ cá nhân và cố nhiên là cả không gian sống. Những cơ sở mở không gian sống ra với xã hội đầu tiên được ghi nhận là các trường tiểu học, trung học liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp của nước ngoài; sau đó đến các công sở, văn phòng của các công ty đa quốc gia; tiếp nữa là đến các nhà hàng, khách sạn,...
Các bức tường xây nặng nề xám xịt được phá bỏ để thay thế bằng những hàng rào làm bằng những thanh gỗ song đứng sơn trắng hay sắt thanh mảnh; khoảng cách giữa các thanh rộng đủ không để người chui qua nhưng lại đủ rộng để nhận ra nhau. Chúng được thiết kế mềm mại và tạo ra sự thông thoáng. Nếu lúc trước hàng rào chỉ có chức năng bảo vệ, khẳng định chủ quyền thì nay hàng rào còn mang thêm chức năng nghệ thuật. Các hàng rào lúc này dường như chỉ mang tính quy ước, do vậy mà chúng rất đa dạng. Nhiều nhà hàng có hàng rào được trồng bằng một hàng tre, trúc; có công sở lại đặt các bồn hoa, cây cảnh, cây xanh, thảm cỏ phía sân trước sát vỉa hè để xác định ranh giới; thậm chí có rất nhiều công sở, cao ốc ở khu vực trung tâm còn bỏ hẳn cả hàng rào làm cho không gian riêng chung liên thông với nhau trong một khung cảnh hài hòa linh hoạt. Hiệu ứng “open” (mở) này cũng dần lan tới không gian công cộng. Các hàng rào công viên được phá bỏ cho mọi người tự do ra vào như Công viên Tao Đàn, Công viên Bạch Tùng Diệp, Công viên 23-9, sau đó là Công viên Gia Định, Công viên Hoàng Văn Thụ,…
Tiếp nối quá trình mở này là các cơ quan nhà nước dỡ bỏ rào chắn như UBND TP, hội trường Thành ủy, các bảo tàng như Dinh Thống Nhất, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. Tiếp đó là các công sở, khách sạn được mở toang với xã hội không còn ranh rới cứng nữa. Và rồi cuối cùng nó lan tỏa tới nhà dân, nhất là khu vực ở các quận trung tâm như quận 1, 3. Mọi người nhận thấy, khi không gian của mỗi đơn vị ở mở ra thì có nhiều chuyện thật thú vị. Một không gian nhỏ khi mở ra với xã hội lớn cũng là lúc thiên hạ được quyền nhìn vào bên trong khuôn viên và cũng là lúc mà gia chủ định vị danh tính của mình (tên công ty, bảng hiệu, số nhà) qua không gian trình diễn và sắp đặt. Đóng kín mít thì sao cũng được nhưng khi mở ra thì đấy lại là bản mặt (sĩ diện) của gia chủ. Do vậy gia chủ nào cũng cố gắng chăm chút cho cái mặt tiền đó đẹp hơn từ việc thiết kế hàng rào, cánh cổng đến trồng cây cảnh, gạch lát sân, và cả đá cảnh, hòn non bộ, tượng đá nghệ thuật, hồ phong thủy, ghế đá, xích đu...
Khi không gian sống mở bung ra thì không chỉ có lợi cho môi trường sống, chẳng hạn ánh nắng tràn vào làm cho nhà cửa khô ráo, gió lưu thông trước sau làm cho nhà cửa luôn mát mẻ, không còn tối tăm ẩm mốc, mà còn làm cho quan hệ con người thân thiện hơn. Chào nhau mỗi buổi sáng qua hàng rào thưa trước khi đi làm, thông báo cho nhau chuyện phố phường cơ quan sau một ngày làm việc khi chiều về, các cháu nhỏ chạy qua nhà nhau chơi làm cho quan hệ cộng đồng thêm gắn bó. 
Kết nối không gian tự nguyện
Mấy năm gần đây, với sự trợ giúp của kỹ thuật xây dựng hiện đại và vật liệu xây dựng mới làm xuất hiện xu hướng mở không giới hạn. Rất nhiều cửa hàng thời trang, cửa hàng bán đồ lưu niệm, cửa hàng bán hoa tươi, quán cà phê, quán kem, quán nhậu, thậm chí hồ bơi ở khách sạn không làm tường bao, vách ngăn bằng vật liệu truyền thống như gạch hay thạch cao mà làm bằng kính cường lực trong suốt nhìn thông thống từ ngoài đường vào tận tít bên trong, khiến người ta có cảm giác không còn ranh giới trong ngoài nữa. Trong mỗi chúng ta, không dưới một lần nhận được cái gật đầu và nụ cười thân thiện của người ở bên trong tường kính và chúng ta cũng vui vẻ đáp lại họ mà cả người chào và người đáp không hề quen biết nhau. Đó là chuyện thường thấy ở xứ này.
Ai đó nói TPHCM là vùng đất nóng quanh năm nên việc phải mở toang cửa ra đón gió là chuyện tự nhiên, cũng có thể như vậy. Nhưng điều hơn thế là khi mà người dân quyết định kết nối không gian riêng tư với không gian xã hội một cách tự nguyện, không bắt đầu từ một mệnh lệnh hành chính nào. Điều này cho thấy một điều hệ trọng là người dân đã đặt niềm tin vào chính quyền, vào cộng đồng và yên tâm sinh sống trong một xã hội ngày một tốt hơn, bình yên hơn. Khi nói về TPHCM, bạn bè nước ngoài đều đồng ý với nhau rằng người thành phố này thật  “open” và thật dễ mến.

Tin cùng chuyên mục