Cấm kinh doanh mặt hàng "5 không"
Là người đầu tiên phát biểu tại phiên họp, ĐB Phạm Trọng Nhân (TPHCM) “khẩn thiết” đề nghị Quốc hội bổ sung khí N2O (bóng cười) cùng các chất hướng thần mới vào Điều 6 của luật để thiết lập lệnh cấm tuyệt đối đối với hoạt động kinh doanh những mặt hàng này. ĐB nhấn mạnh, thị trường N2O hiện đang vận hành hoàn toàn ngoài vòng kiểm soát nhà nước, với “5 không”: (không phép, không tiêu chuẩn chất lượng, không kiểm định độc tính, không truy xuất nguồn gốc, không báo cáo y tế định kỳ).
Nêu rõ những cơ sở khoa học về mức độ nguy hiểm của “bóng cười”, đặc biệt tác động đến giới trẻ, ĐB kết luận: “Thị trường này không thể quản lý, và giải pháp duy nhất là khóa chặt cửa trước”.
Việc cấm N2O, theo ĐB, không gây tranh chấp thương mại và nhiều quốc gia trên thế giới đã cấm hoặc kiểm soát chặt chẽ (Anh cấm tuyệt đối, Hà Lan cấm bán và sở hữu…). Không chỉ N2O, ĐB Phạm Trọng Nhân còn đề nghị giao cho Chính phủ xây dựng tiêu chí nhận diện các chất hướng thần mới để cập nhật kịp thời danh mục cấm; rà soát toàn bộ khí công nghiệp và khí thực phẩm để ngăn chặn tình trạng lợi dụng bao bì để “tuồn” chất cấm.
Phát biểu sau đó, ĐB Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) cũng tán thành mạnh mẽ quan điểm này. Ông cũng bày tỏ quan điểm cấm tuyệt đối thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, thực hiện nghiêm Nghị quyết số 173/2024/QH15 của Quốc hội về hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV (Nghị quyết số 173 đã cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, chứa chấp, vận chuyển, sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, các loại khí, chất gây nghiện, gây tác hại cho sức khỏe con người từ năm 2025).
ĐB Đào Chí Nghĩa (Cần Thơ) góp ý 3 nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện dự án luật đầu tư sửa đổi. ĐB nhận định, mặc dù dự thảo đã loại bỏ 25 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng vẫn cần bổ sung cơ chế kiểm soát tối thiểu về chất lượng và chuyên môn đối với một số ngành nghề đã bãi bỏ; bởi lẽ việc bãi bỏ mà thiếu cơ chế hậu kiểm chuyên môn có thể dẫn đến rủi ro về chất lượng dịch vụ và gây phương hại đến lợi ích công cộng.
Quy định rõ tiêu chí ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
Liên quan đến ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, ĐB Đào Chí Nghĩa nhận định, chính sách ưu đãi đang định hướng vào các mục tiêu chiến lược (công nghệ cao, kinh tế xanh) nhưng thiếu cơ chế giám sát hiệu quả dựa trên kết quả thực tế, cần bổ sung quy định cụ thể về cơ chế hậu kiểm và bồi hoàn.
“Ưu đãi đầu tư phải được áp dụng theo nguyên tắc dựa trên các chỉ số định lượng về chất lượng, hiệu quả đầu tư, giá trị gia tăng, công nghệ và mức độ lan tỏa của dự án. Chính phủ quy định chi tiết các chỉ số này và phải có cơ chế thu hồi ưu đãi hoặc bồi hoàn hỗ trợ nếu nhà đầu tư không đạt cam kết định lượng”, ĐB Đào Chí Nghĩa nêu ý kiến.
Cùng mối quan tâm, ĐB Lã Thanh Tân (Hải Phòng) khuyến nghị phân biệt rõ bản chất cơ chế ưu đãi (giảm gánh nặng, qua thuế, đất đai) và hỗ trợ (tăng năng lực, qua đào tạo, hạ tầng, R&D) để tránh trùng lặp; bổ sung quy định về ngưỡng tối đa đối với một số loại ưu đãi nhằm ngăn chặn tình trạng "đua nhau ưu đãi" (đặc biệt trong các lĩnh vực đơn giản như lắp ráp, dệt may), làm xói mòn ngân sách mà không tạo ra giá trị gia tăng tương xứng.
“Ưu đãi và hỗ trợ phải gắn với cam kết và kết quả thực hiện của nhà đầu tư. Cơ quan nhà nước có quyền điều chỉnh, thu hồi hoặc yêu cầu bồi hoàn nếu không đạt yêu cầu”, ông Lã Thanh Tân nhấn mạnh.
Cũng theo ĐB Lã Thanh Tân, tiêu chí địa bàn ưu đãi hiện tại chủ yếu dựa trên phân loại khó khăn cũ và đã lỗi thời. Đề nghị bổ sung cơ chế đánh giá định kỳ (3-5 năm) và điều chỉnh danh sách dựa trên ba tiêu chí hiện đại: khả năng tiếp cận thị trường, năng suất lao động, mức độ chuyển đổi số, và khả năng thu hút lao động chất lượng cao.
ĐB Lê Hoàng Anh (Gia Lai) hoàn toàn đồng tình với việc Chính phủ mạnh dạn bãi bỏ nhiều ngành, nghề không còn phù hợp, song nhận xét rằng trong danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn còn một số ngành nghề không thật sự cần thiết phải duy trì trong danh mục kinh doanh có điều kiện, hoặc không cần duy trì điều kiện ở cấp luật. ĐB phân tích, nhóm kinh doanh thực phẩm (STT 48) đang bao trùm quá rộng, thực chất là tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn thực phẩm đã được luật chuyên ngành quy định chi tiết.
“Ở cấp luật, chỉ cần giữ các khâu có rủi ro rất cao; toàn bộ điều kiện kỹ thuật chuyển xuống nghị định và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia để bảo đảm linh hoạt và cập nhật theo thực tiễn”, ĐB Lê Hoàng Anh bình luận. Ông cũng cho rằng đối với thương mại điện tử (STT59), luật không nên bao trùm tất cả các hoạt động logistics, thanh toán, nền tảng nhỏ; chỉ giữ đối với nền tảng quy mô lớn có dữ liệu người tiêu dùng.
Vẫn theo ĐB Lê Hoàng Anh, nhóm thức ăn chăn nuôi, thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng (STT 147-149), cùng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, dịch vụ khảo nghiệm - thử nghiệm (STT 158-166, 172, 175-177) là các hoạt động thuần túy về chất lượng, an toàn kỹ thuật. Rủi ro được kiểm soát hiệu quả thông qua cơ chế đăng ký lưu hành, kiểm nghiệm, kiểm dịch và quy chuẩn kỹ thuật. Do vậy, không cần duy trì ngành, nghề có điều kiện ở cấp luật, mà nên để luật chuyên ngành và nghị định quy định chi tiết điều kiện kỹ thuật, cơ chế hậu kiểm và chế tài xử lý vi phạm.