Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, về tiêu chí kỹ thuật, mạng lưới đường sắt đô thị ở TP Hà Nội và TPHCM có khổ đường 1.435mm, đường đôi. Tốc độ thiết kế 80-160km/giờ; hệ thống cấp điện trên cao hoặc cấp điện ray thứ 3; vận hành đoàn tàu tự động; phương tiện sử dụng đoàn tàu động lực phân tán EMU.
Dự kiến, đến năm 2035, 2 thành phố hoàn thành các tuyến đường sắt đô thị theo quy hoạch hiện có, tổng chiều dài khoảng 580km; năm 2045, hoàn thành khoảng 369,1km (Hà Nội thêm khoảng 200,7km, TPHCM khoảng thêm 168,4km); năm 2060, hoàn thành thêm khoảng 158,66km tại TPHCM. Các thành phố phấn đấu đến năm 2035, đường sắt đô thị chiếm 30-35% thị phần vận tải hành khách công cộng, và tăng lên 55-70% sau năm 2035.
Lãnh đạo TP Hà Nội, TPHCM cho biết, các tuyến đường sắt đô thị đã được nghiên cứu bước đầu, chuẩn bị quy hoạch không gian ngầm, quỹ đất, tính toán các khu vực phát triển đô thị, thương mại, dịch vụ dọc tuyến (TOD), kết nối với tuyến đường sắt quốc gia cũng như các đầu mối giao thông lớn… Ngay sau khi đề án phát triển hệ thống đường sắt đô thị ở Hà Nội, TPHCM được cấp thẩm quyền phê duyệt, 2 địa phương sẽ tiếp tục xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quy hoạch chi tiết, chuẩn bị các dự án đầu tư theo lộ trình; đặc biệt là đề xuất một số cơ chế, nhóm chính sách đặc thù.
Dự kiến, cơ cấu nguồn vốn đầu tư hệ thống đường sắt đô thị là ngân sách địa phương, vốn vay, ngân sách trung ương hỗ trợ và các nguồn hợp pháp khác, đồng thời, kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân quan tâm đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô thị, nhà ga kết hợp trung tâm thương mại, phương tiện khai thác.
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đánh giá cao nội dung dự thảo 2 đề án phát triển đường sắt đô thị của Hà Nội, TPHCM đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, bài bản, vừa thống nhất, vừa có cách tiếp cận, phân kỳ thực hiện phù hợp đặc thù của từng địa phương.
Phó Thủ tướng giao TP Hà Nội, TPHCM tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ GTVT, tiếp thu đầy đủ ý kiến của các bộ, ngành liên quan, khẩn trương hoàn thiện hai đề án để báo cáo Bộ Chính trị. Trong đó tập trung làm rõ bối cảnh, tình hình triển khai các dự án đường sắt đô thị tại mỗi thành phố; bổ sung quy hoạch không gian ngầm cho đường sắt đô thị tại TPHCM; huy động vốn đầu tư; căn cứ xác định định mức kinh tế kỹ thuật; lựa chọn công nghệ và khả năng tự chủ trong chế tạo thiết bị, mô hình quản lý điều hành hệ thống, đào tạo nguồn nhân lực...
Ngoài những cơ chế, chính sách đặc thù đã có, Hà Nội, TPHCM cần đề xuất cụ thể những nhóm cơ chế, chính sách chung, cần thiết cho cả 2 địa phương để phát triển đường sắt đô thị; cơ chế huy động, phân bổ nguồn vốn đầu tư công trung hạn từ ngân sách trung ương, địa phương và các nguồn vốn khác; mức độ an toàn khi huy động vốn vay đối với ổn định kinh tế vĩ mô…