Ngày ấy, khi bà còn là một cô bán hàng xén xinh đẹp ở chợ quê, có hai anh cùng đến hỏi bà làm vợ. Cuối cùng bà đã chọn anh bộ đội làm thơ. Biết là có thể khổ nghèo phân ly nhưng bà đã quyết: “Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam”.
Mà đói no thật, lạnh lùng thật chứ không đùa. Năm lấy nhau, khi ấy còn là thời kháng chiến chống Pháp, ông là bộ đội xa nhà đi chiến đấu biền biệt, đến hòa bình lại vẫn phải đi, đóng quân mãi giới tuyến Vĩnh Linh, còn bà thì vò võ một mình nơi làng Điểu Khê, Hà Tĩnh. Cũng bởi vậy mà đến 9 năm sau ngày cưới, ông bà mới có đứa con đầu lòng, đặt tên là Thiều Quang. Rồi ông lại được điều ra Hà Nội, bà bế con theo ông. Cả gia đình ở trong một căn nhà nhỏ nơi bãi Phúc Xá và không năm nào không phải bế bồng nhau chạy lũ lụt. Thương nhất là lũ con còn nhỏ khi ông thì dắt thằng con trai, bà bế hai đứa con gái chạy lũ. Chiều đến lại bơi ra tìm lô bản thảo của ông, dù đã được treo lên trần nhà, nhưng mưa bão nước vẫn làm nhòe hết nét mực. Ở căn nhà ấy, ngày ngày bà đi làm một nhân viên cần mẫn của cửa hàng bách hóa tổng hợp Hà Nội và tan giờ làm lại tất bật về chợ búa, bếp núc, giặt giũ “hầu” chồng viết văn và “hầu” bốn đứa con thơ. Gần như cả một đời, bà chịu đựng kham khổ, tiết kiệm chi tiêu lo cho chồng an tâm viết lách, đãi đằng bạn bè, lo cho con cái học hành nên người...
Sự hy sinh vất vả của bà luôn làm ông xúc động. Năm 1969, giữa chiến trường ông viết gửi về bà những vần thơ thấm đẫm yêu thương:
Thương em lắm, hậu phương bề bộn
Dắt mẹ cõng con sơ tán đường trơn
Phiếu gạo, phiếu dầu chong đèn tính toán
Báo động nghiêng đêm giấc ngủ chập chờn.
Thư em viết liêu xiêu nét chữ
Chỉ báo tin vui và chuyện tốt lành
Em giấu kín những điều thắc thỏm
Để yên lòng người đối mặt chiến tranh.
Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại
Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn
Và ta biết em cắn răng chờ đợi
Ngày sum vầy trọn vẹn nước non.
Câu thơ của ông đã nói đúng một điều thật tuyệt vời: “Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại”. Hậu phương ngày ấy của chúng ta thật vĩ đại. Những người vợ có chồng ra trận ngày ấy cũng thật vĩ đại. Và bà chính là một trong những người vợ vĩ đại ấy.
Chồng bà, ông Xuân Thiều, đã từng cầm súng chiến đấu và sau đó là cầm bút làm thơ, viết văn. Là nhà văn quân đội nên phần lớn đời ông ở chiến trường. Những trang văn của ông rực rỡ nhất khi sáng tác trong khoảng thời gian ấy. Ông viết nhiều và đã từng được trao giải văn học Nguyễn Đình Chiểu, giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, Giải thưởng văn học Nhà nước 2001 và gần đây nhất là giải thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước là giải thưởng Hồ Chí Minh. Bà đã có vinh dự thay chồng nhận giải thưởng Hồ Chí Minh do đích thân Chủ tịch nước trao tặng. Bà lên nhận giải trên chiếc xe lăn. Chủ tịch nước đã trang trọng trao tặng bà tấm bằng của nhà văn cùng những lời cảm ơn và cảm phục đầy xúc động. Có lẽ, đó cũng là phần thưởng cho chính bà, người vợ hiền, người đã thầm lặng gánh vác mọi việc nhà, việc con cái cùng mọi bão dông của cuộc đời để nuôi các con nên người và thành đạt, để cho ông chỉ yên tâm ngồi viết và hoàn thành những sứ mệnh văn chương của mình.
Em vĩ đại như hậu phương vĩ đại
Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn...
Vẫn vững niềm tin, gánh nặng vai mòn...
Câu thơ ấy của ông tặng bà đã luôn đúng với bà qua mọi thời gian. Vâng, bà là Nguyễn Thị San, người vợ yêu quý của nhà văn quân đội Xuân Thiều, cũng như người chị thân thiết của bao nhiêu nhà văn quân đội chúng ta như Hữu Thỉnh, Đỗ Chu, Vương Trọng, Ngô Vĩnh Bình, Nguyễn Trí Huân, Lê Thành Nghị, Nguyễn Bảo......
Xin cảm ơn vợ một nhà văn lớn!