Giáo dục là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động này nhanh hơn bởi giáo dục là nhân tố làm cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nhanh chóng đi vào cuộc sống và cũng chính nó sẽ tạo ra những phiên bản của các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo. Vậy giáo dục đại học của Việt Nam đã phản ứng như thế nào với cuộc cách mạng này? GS.TS Vương Thanh Sơn (ĐH British Columbia, Vancouver, Canada) đã chia sẻ với chúng tôi xung quanh những vấn đề trên.
PV: - Thưa GS.TS Vương Thanh Sơn, cách mạng công nghiệp 4.0 là gì và dưới tác động của cuộc cách mạng này, hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các trường đại học trên thế giới nói chung và đại học Việt Nam nói riêng phải đối mặt với điều gì?
- GS-TS Vương Thanh Sơn: Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể hiểu đơn giản là công nghiệp thông minh hay nhà máy thông minh. “Thông minh” không chỉ nói khả năng tính toán xử lý nhanh, mà còn bao gồm khả năng kết nối. Nhà máy thông minh là một hệ thống phức tạp gồm nhiều thành phần cá thể thông minh tự động và kết nối với Internet vạn vật (Internet of Things - IOT).
Nếu hiểu Cách mạng công nghiệp 1.0 vào cuối thế kỷ 18 là cơ khí hóa với máy chạy bằng thủy điện và hơi nước, Cách mạng công nghiệp 2.0 vào đầu thế kỷ 20 là sản xuất hàng loạt qua động cơ điện và dây chuyền sản xuất, và Cách mạng công nghiệp 3.0 vào đầu thập niên 1970 là tự động hóa qua máy tính, thì Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay là IOT hay còn gọi là Hệ thống thực ảo (Cyber Physical Systems – CPS).
Trong Internet Vạn vật, mọi vật (trên 10 tỷ vật hiện nay và tiếp tục gia tăng theo số mũ) đều có thể kết nối mạng qua thiết bị cảm ứng (với con “chip”). Do đó, số dữ liệu thu thập rất lớn (big data), cần những giải thuật trí tuệ nhân tạo để phân tích, học hỏi, hiểu, dự đoán, tối ưu hóa, và cuối cùng tạo sự thay đổi hiệu quả toàn diện cho hệ thống.
- Vậy hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học tại các trường đại học trên thế giới nói chung và đại học Việt Nam nói riêng phải đối mặt với điều gì trước tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, thưa GS?
- Theo tôi, Cách mạng công nghiệp 4.0 ảnh hưởng rất lớn đến giáo dục đại học trên 2 phương diện rộng: Một là nội dung hay đề cương giảng dạy, một số ngành mới sẽ ra đời và một số ngành sẽ mất đi, kỹ năng Anh văn và kiến thức về công nghệ thông tin vẫn là mẫu số chung mấu chốt cho đại học 4.0; hai là mô hình đào tạo và nghiên cứu sẽ theo hướng mở và thoáng, cởi bỏ giới hạn của không gian, thời gian và môi trường.
Đại học trên thế giới và nhất là đại học Việt Nam nói riêng đều cần cải cách theo hướng đại học 4.0 vì nhu cầu và tính cạnh tranh cao và gia tăng nhanh chóng theo thời gian. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta quá gấp gáp để vấp váp chạy theo xu hướng bên ngoài. Khẩn trương, nhưng vẫn cần có thời gian tìm hiểu rõ để nắm bắt cơ hội và phát triển phù hợp với hiện trạng tại Việt Nam.
Tôi đồng ý với quan điểm có 4 yếu tố để hội nhập và tiếp thu nhanh xu hướng cách mạng 4.0, gồm: Bộ GD-ĐT, trường đại học, thị trường, và sinh viên.
Cả 4 yếu tố này phải có trách nhiệm trọn vẹn với nhau, tuy nhiên yếu tố cơ chế giáo dục mở và thoáng phải nhất thiết phát xuất từ Bộ GD-ĐT, nhà nước; đó là yếu tố quan trọng hàng đầu để kích thích và tạo động lực đột phá cho cải cách kịp thời bắt kịp xu hướng thế giới. Song song, yếu tố trường đại học luôn là yếu tố căn bản và cốt lõi, dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh viên cùng kết nối với thị trường và doanh nghiệp. Doanh nghiệp tích cực vừa là thị trường và cũng vừa là đối tác hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu trong xu hướng cách mạng 4.0.
Chúng ta thừa hiểu hậu quả của thụ động, bảo thủ hay chậm trễ là bị bỏ bên lề, thoái bộ và thua thiệt ảnh hưởng từ thế hệ này đến các thế hệ sau.
- Nếu vậy mô hình đào tạo và phương thức tuyển sinh của các trường đại học cũng sẽ bị tác động theo?
- Mô hình đào tạo cho đại học 4.0 hiện tại chưa có xác định mặc dù nhiều nghiên cứu và thảo luận đang diễn ra trên thế giới và tại Việt Nam. Tổng quát mà nói, nó phải gồm 3 yếu tố: kết nối Internet, thông minh (với công cụ tính toán thông minh phần cứng và phầm mềm hổ trợ đào tạo và học hỏi, quản lý trường và săn sóc sinh viên) và có yếu tố con người tham gia trong chu trình.
Tôi gọi nó là mô hình ICH (Internetworking, Computing tools, Humans). Yếu tố con người vẩn là yếu tố quan trọng vì tất cả đều chỉ để phục vụ cho con người, và hai yếu tố kết nối và thông minh kia cũng vẩn do con người (“kết nối” do con người thiết kế và thực hiện) và bởi con người (công cụ và phương pháp thông minh được thiết kế và chế tạo bởi con người).
Trong mô hình đào tạo ICH cho đại học 4.0, yếu tố con người bao gồm thầy dạy, trợ giảng, sinh viên, bạn học trong nhóm, chuyên gia, và cả người thầy dựng ra đề cương, giáo trình, và người thiết kế xây dựng công cụ đào tạo và học hỏi. Thầy và trợ giảng có thể gặp gỡ sinh viên trong lớp hoặc trực tuyến từ xa. Tương tự như vậy, sinh viên làm việc trong nhóm có thể gặp nhau cùng liên hệ với thầy, trợ giảng và chuyên gia tư vấn trực tuyến từ xa hoặc trực diện trong phòng thí nghiệm, phòng họp hoặc trong một địa điểm môi trường xanh. Sinh viên có thể truy cập tài liệu học tập được lưu trử phần lớn thuận tiện trên công cụ cá nhân hoặc tải về từ xa qua mạng khi cần.
Trong mô hình giáo dục đại học truyền thống, yếu tố “Thầy" là quan trọng nhất nếu không nói đó là yếu tố duy nhất; trong mô hình này thông thường thầy giảng và trò nghe thụ động, với sự tương tác một chiều là chánh. Trong mô hình mới ICH, yếu tố “liên kết tương tác” và yếu tố “công cụ thông mình” được nhấn mạnh, do đó vai trò của sinh viên trở thành quan trọng nồng cốt, sinh viên có thể học bất cứ lúc nào, bất kỳ chỗ nào, bất cứ ai với trình độ nào đều có cơ hội học theo cách thức phù hợp.
Phương pháp học dựa vào sinh viên là chinh, thầy chỉ phụ trách giữ nhịp, tạo động lực, giám sát và đánh giá. Giáo trình, tài liệu và công cụ học tập được cung cấp trước cho sinh viên; sinh viên phải học tập, nghiên cứu, thực tập theo năng lực, tính cách và điều kiện của mình, chỉ gặp gỡ thầy và trợ giảng khi cần thiết, khi cần thảo luận về những vấn đề phức tạp, tinh tế, nâng cao. Đó là mô hình học hỏi dựa trên sinh viên và đánh giá theo năng lực (student-based flip learning and competency based assessment).
Mô hình đại học 4.0 phải bao gồm 3 yếu tố ICH, nhưng chi tiết về hàm lượng, cân đối của từng yếu tố và sự tương tác của những yếu tố này, hay nói cách khác phương pháp đào tạo và học hỏi cụ thể, đòi hỏi sự nghiên cứu và thử nghiệm sâu dầy theo thời gian mới hoàn toàn xác định được. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh là mô hình đại học 4.0 hay mô hình ICH không thể hiểu lầm là mô hình trực tuyến (online) đơn thuần khi so sánh với mô hình đại học truyền thống. Mô hình đại học 4.0 hay mô hình ICH là mô hình thông minh: mở và thoáng, nâng cao, mới mẻ, hiệu quả, chất lượng, trộn lẩn học trong lớp và học trực tuyến (open flexible blended learning model). Mô hình 4.0 có yếu tố kết nối thông minh đa dạng theo nghĩa rộng; không phải là mô hình trực tuyến (online) giới hạn, đồng hóa với đào tạo chất lượng thấp.
Dựa theo mô hình cách mạng công nghiệp 4.0, thì việc chiêu sinh và tiếp thị marketing cũng như việc săn sóc và giữ sinh viên cũng sẽ khác nhiều so với mô hình truyền thống vì sẽ có nhiều yếu tố mới, như đối tượng tuyển sinh mở rộng ra có thể không biên giới quốc gia và khu vực, với độ tuổi khác nhau, và ở vào thời điểm khác nhau trong lộ trình học vấn. Mặt khác, thị trường tuyển dụng cũng biến đổi khác. Hơn nữa, kho dữ liệu liên quan đến sinh viên và đối tượng tuyển sinh cũng có sẵn với số lượng khổng lồ (big data). Do đó, tuyển sinh theo mô hình 4.0 sẽ nhấn mạnh tuyển sinh qua mạng và mạng xã hội (e-marketing) với những công cụ hỗ trợ tuyển sinh (tiếp thị) thông minh (dựa trên trí tuệ nhân tạo, khai thác dữ liệu lớn), kết hợp với cả thông tin thị trường, hay cơ hội tuyển dụng khi ra trường.
- Mô hình đào tạo, phương thức tuyển sinh thay đổi, theo đó thách thức về nguồn nhân lực và thị trường tuyển dụng trong tương lai ra sao? Bởi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể đưa đến tình trạng bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là nguy cơ phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế con người trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, người lao động chắc chắn sẽ phải thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất nếu không sẽ bị dư thừa, thất nghiệp?
- Như trình bày bên trên, mô hình giáo dục cùng phương thức tuyển sinh sẽ thay đổi rất nhiều. Do cách mạng công nghiệp 4.0 và IOT, nhiều công cụ thông minh như robots và phần mềm đặc vụ trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế nhân công và nhân viên phục vụ trong nhiều lãnh vực như giáo dục, thương mại, du lịch, giải trí, chăm sóc sức khỏe, sản xuất, v.v. đưa đến thách thức lớn về nguồn nhân lực và thị trường tuyển dụng, đúng là có khả năng có nguy cơ phá vở thị trường lao động.
Thực vậy, gần đây, McDonald công bố sẽ xây thêm 25.000 nhà hàng mới, hoạt động hầu như bằng robots và tự động. Thay vì quy mô 10-20 nhân viên một nhà hàng truyền thống như trước kia, nhà hàng theo mô hình mới này sẽ chỉ cần 2-3 người để quản lý, do đó sẽ giảm tuyển đi vài trăm ngàn người lao động. Tháng 5, 2016, BBC News loan tin Foxconn Technology Group, công ty cung cấp linh kiện cho hãng Apple và Samsung, cũng tuyên bố sẽ cắt giảm 60.000 nhân công và thay thế bằng robots. Ngoài ra có một số dự báo còn đáng lo ngại hơn: sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10-20 năm tới tại riêng Mỹ và Anh, tương đương 50% lực lượng lao động tại hai nước này.
Tuy nhiên, trong mọi thách thức, luôn có cơ hội tiềm ẩn. Tôi nhận thấy những công cụ thông minh tự động như robots, phần mềm AI, v.v. là sản phẩm của con người, chỉ có thể thay thế con người trong lãnh vực xử lý thấp; nhưng con người vẫn ưu việt trên phương diện xử lý cao. Có nhiều lãnh vực máy móc và công cụ thông minh không thể thay thế con người, nhất là trong lãnh vực liên quan đến yếu tố cảm tính và văn hóa như quyết định liên quan đến yếu tố riêng tư, thực hiện hòa giải hợp tình hợp lý. Chưa nói đến lãnh vực phức tạp tinh tế phi vật thể như yếu tố trực giác, siêu giác quan hay khoa học siêu văn minh, công cụ vật thể con người tạo ra trong nền văn minh hiện tại còn bị giới hạn rất nhiều.
Trên thực tế, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như IOT còn có nhiều thách đố riêng chính nó như những thách đố về kỹ thuật, về an ninh mạng và an toàn phần mềm, về văn hóa và xã hội, và những ứng dụng mới. Những thách đố này cần nhân sự để giải quyết. Hơn nữa, điều lạc quan lý thú là IOT có khả năng đưa đến những ứng dụng mới tạo ra nhiều công việc mới cho thị trường lao động, chẳng hạn như dịch vụ Uber tạo công việc cho nhiều người vốn không phải làm nghề lái taxi. Một điểm lạc quan khác là do thị trường lao động không còn bị giới hạn bởi ranh giới quốc gia, nên việc thuê ngoài như gia công xử lý kinh doanh sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho thị trường lao động của các nước đang phát triển như Việt Nam. Ngoài ra, IOT cũng đưa đến cơ hội khởi nghiệp sáng tạo mở rộng cho nhiều doanh nhân tuổi trẻ, đặc biệt là trong các nước đang phát triển như Việt Nam, tạo thêm cơ hội phat triển thị trường lao động. Do đó, việc cân đo nặng nhẹ giữa cái mất và cái được do cách mạng 4.0 mang đến còn sớm để kết luận. Nhưng khẳng đình rằng nếu chúng ta không tích cực đầu tư, trong tương lai cái mất chắc chắn sẽ rất nhiều.
- Vậy các trường đại học và sinh viên cần chuẩn bị tâm thế như thế nào để đối mặt với thách thức phía trước? Phải chăng trong tương lai mô hình đại học truyền thống sẽ dần dần biến mất, tiến dần đến triệt tiêu và nhường chỗ cho đại học trực tuyến lên ngôi trong kỷ nguyên 4.0?
- Vì diễn biến của cách mạng công nghiệp 4.0 và IOT quá nhanh và tầm ảnh hưởng quá sâu rộng đến mọi lãnh vực của cuộc sống của mọi người, nên các trường đại học và sinh viên cần hiểu rõ các vấn đề, thách thức cùng cơ hội của mô hình 4.0. Mỗi trường đại học nên có 1 trung tâm hay 1 ban dự án về đại học 4.0 cùng những buổi thảo luận mở trên chủ đề mô hình 4.0 nhằm chuẩn bị chủ động đối phó với thách thức và nắm bắt kịp thời cơ hội mà cách mạng 4.0 có thể đưa đến, đặc biệt là cơ hội khởi nghiệp cho doanh nghiệp xã hội theo mô hình 4.0.
Trong tương lai mô hình đại học truyền thống sẽ phải biến đổi trở thành mô hình cấp tiến, mở và thoáng với 3 yếu tố ICH: kết nối, thông minh và có yếu tố con người. Đó là mô hình mới mẻ, nâng cao, cấp tiến, tổng hợp có yếu tố kết nối mạng (trực tuyến), nhưng không phải là mô hình đại học thuần túy trực tuyến theo ý nghĩa tiêu cực thường hiểu trước đây.
- Kinh nghiệm xây dựng đại học 4.0 của các nước trên thế giới như thế nào và Việt Nam cần học hỏi điều gì?
- Chưa có đại học 4.0 nào được xây dựng trên thể giới. Trong khi các nước trên thế giới vẫn còn đang loay hoay thử nghiệm và nghiên cứu mô hình đại học 4.0, Việt Nam cũng nên tham gia đồng nhịp thử nghiệm mô hình ICH cho mô hình đại học thông minh 4.0 trong những dự án thí điểm xây dựng nội dung sử dụng hệ thống nền hiện có như EDX hay Coursera, thiết kế và xây dựng những công cụ thông minh, gồm cả công cụ quản lý đại học và săn sóc sinh viên dựa trên thẻ thông minh, phần mềm trí tuệ nhân tạo, công cụ đám mây địa phương cá thể, bản địa hóa kho nội dung và tài liệu học, cùng liên kết quốc tế thử nghiệm phương pháp đào tạo và học tập mới mẻ, mở và thoáng, nhưng phù hợp với hiện trạng và văn hóa Việt Nam.
Xin cảm ơn Giáo sư!