Cân đối giữa xuất tươi và chế biến
Công ty Lavifood (Long An) những ngày qua cũng mua hơn 1.000 tấn thanh long trong dân với giá cao hơn thị trường 5.000 đồng/kg để dự trữ chế biến nước thanh long đóng lon, chuẩn bị tung ra thị trường trong nước và xuất khẩu. Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, đó là hình mẫu trong việc liên kết giữa nhà nông với DN, hạn chế rủi ro cho nông dân; cũng như cho thấy sự cần thiết của việc cân đối giữa xuất khẩu tươi và chế biến nông sản, góp phần gia tăng giá trị sản phẩm, giúp giải quyết tình trạng dư thừa một loại nông sản nào đó vào vụ thu hoạch rộ. Những mô hình liên kết này khi được mở rộng, sẽ đồng nghĩa với tình hình “giải cứu” tự phát giảm dần xuống.
Hình thành trung tâm phân phối
Lãnh đạo tỉnh Long An kiến nghị Bộ NN-PTNT xúc tiến thành lập trung tâm phân phối nông sản tại thị trường Trung Quốc, làm đầu mối giao dịch với DN trong nước nhằm hạn chế rủi ro; chủ trì phương án liên kết các tỉnh (trước mắt là 3 tỉnh Long An, Tiền Giang và Bình Thuận) về rải vụ trái thanh long, để tránh sản lượng ồ ạt. Có thể nói, đây là đề xuất đáng chú ý.
Ông Nguyễn Lâm Viên, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Vinamit - doanh nhân nhiều kinh nghiệm về chế biến và xuất khẩu nông sản, cho biết việc thành lập trung tâm phân phối nông sản ở Đài Loan hay ở Mỹ đã xuất hiện từ lâu. Nhưng trước hết, các trung tâm phân phối này hình thành tại các vùng nguyên liệu tập trung. Những trung tâm này được đầu tư bài bản về hệ thống logistics nhằm tạo điều kiện dễ dàng trong việc thu mua, bảo quản, vận chuyển. Đây sẽ là nơi để phân loại nông sản, sơ chế, đóng gói hay đưa vào các kho lạnh dự trữ. Các trung tâm này thường do hiệp hội ngành hàng, hội nông dân, hay doanh nghiệp đứng ra tổ chức, có sự giám sát của chính quyền tại chỗ hoặc các ngành chức năng nhằm loại trừ tình trạng “lợi ích nhóm” chi phối, hay phân xử giữa người trồng với nơi thu mua khi xảy ra tình trạng mâu thuẫn về giá. Trong đó, ngành nông nghiệp có trách nhiệm tổ chức người nông dân, thông qua các hợp tác xã để sản xuất một loại nông sản nào đó theo đúng quy trình kỹ thuật canh tác, đảm bảo những yêu cầu về an toàn thực phẩm và truy xuất được nguồn gốc. Khi cần “giải cứu”, các DN đến đây mua về chế biến hay dự trữ.
Các bộ, ngành cũng nỗ lực trong đàm phán để nhanh chóng đưa trái cây, nông sản Việt vào những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, các nước EU, New Zealand, Chile... Nhờ đó, số lượng và chủng loại trái cây xuất khẩu không ngừng được tăng lên (thanh long, nhãn, xoài, vú sữa, vải... ). Nhưng thời gian cho việc mở cửa một thị trường hay một loại trái cây nào đó phải mất 2-3 năm, thậm chí 5-7 năm, vì những thủ tục và điều kiện như: hình thành vùng nguyên liệu được chứng nhận mã code, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, đầu tư dây chuyền xử lý trái cây...
Bất lợi của những thị trường này là quá xa, việc vận chuyển bằng tàu mất nhiều thời gian nên chất lượng rau quả dễ bị giảm; còn vận chuyển bằng máy bay thì chi phí tăng lên. Trong khi đó, Trung Quốc là một thị trường tiêu thụ khổng lồ và cũng đang siết chặt chất lượng, yêu cầu truy xuất nguồn gốc. Vì vậy, bên cạnh việc đa dạng hóa thị trường, Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam trong thời gian tới. Điều cần thay đổi là nhanh chóng thích ứng trước những đòi hỏi về chất lượng và vệ sinh thực phẩm của thị trường này.