Du lịch Quảng Bình 100 năm trước dưới ngòi bút tài hoa của tiền nhân

Cuốn Du lịch Quảng Bình của bác sĩ Nguyễn Kinh Chi (NXB Tiếng Dân ấn hành từ năm 1931) đã có phần mô tả phong phú, chi tiết về lịch sử và cảnh quan của du lịch Quảng Bình. Bên dưới đây là nội dung mà cuốn sách đề cập đến động Phong Nha và đô thị Đồng Hới bên bờ biển Đông của gần 100 năm trước.

“Không bút nào tả đúng động Phong Nha”

Tác giả Nguyễn Kinh Chi mô tả, hồi ấy, “Phong Nha, cũng có tên là động Cù Lạc, hay là động Tiên Sư, là một cảnh thiên tạo đẹp nhất ở Quảng Bình này. Có nhà du lịch đã đem hang Phong Nha sánh với các hang đẹp nhất thế giới, cho nên người Pháp đến đây không ai không đi xem hang ấy”.

IMG_4371.JPG
“Này là những phòng chứa đầy thạch nhũ: cái trắng cái đỏ, cái vàng, cái xám đen, cái lại trong vắt như thuỷ tinh, cái lóng lánh như có hoàng chiếu đính trên mình, cái thời nổi vảy như có vô vạn mảnh nước đá con con bao bọc chung quanh…”, trích sách Du lịch Quảng Bình của Nguyễn Kinh Chi. Ảnh động Phong Nha. Ảnh: MINH PHONG

“Có hai cách đi xem hang Phong Nha: Một là đi xem cho biết, thì khách thuê một chiếc thuyền con và vài người chèo (có một ngọn khe chảy từ trong hang ra ngoài thông với sông lớn nên phải có thuyền mới vào xem được), lại mua chừng 7 – 8 bó đuốc, vào xem vài ba giờ là đủ. Hai là đi xem tường tận, hoặc để nghiên cứu điều gì, thì phải ở lại hang ít nữa ba, bốn ngày (có nhà du lịch ở lại đến 15 ngày), cho nên dự bị cho đủ thức ăn uống, mền, chiếu, diêm, đèn (đèn đá và đèn điện) và đuốc…”, sách viết.

1000054651.jpg
Bìa cuốn sách Du lịch Quảng Bình của tác giả Nguyễn Kinh Chi, Viễn Đệ Đồng Hới ấn hành năm 1931

Phong Nha hồi đó được mô tả có 3 đoạn, đoạn số 3 là đoạn trác tuyệt nhất, nó được chia làm 4 phòng. Sách của Nguyễn Kinh Chi chép: “Thạch nhũ lồi lõm, đường lối khuất khúc, ra vào rất vất vả. Khách du lịch muốn biết rõ đoạn này nên xem mấy bản du kí của ba nhà thám hiểm: Barton (đi năm 1924), Antoine (giáo viên trường Quốc học, đi năm 1928), và Bouffier (Phó Công sứ Quảng Bình, đi năm 1929). Các tác giả đi viết mấy bản đều để tại phòng Du lịch ở Huế, ở Toà sứ và tại hiệu Khuynh Diệp (Đồng Hới). Nhưng dẫu khó khăn đến thế nào, khách cũng nên vào xem cho được đoạn thứ ba này, thì mới gọi là đi xem hang Phong Nha, vì ở đó mới có cái đẹp kì hiểm chưa bao giờ ta từng thấy”.

20230730_094935.jpg
Trăm năm sau động Phong Nha đón khách nườm nượp. Ảnh: MINH PHONG

Ông Barton đi xem về có thuật lại rằng: “Trong động có vẻ đẹp thiên nhiên lộng lẫy, không bút nào tả ra được cho đúng. Tôi ở đó hơn 15 ngày mà đi xem chưa chán. Khách du lịch bước chân vào đấy hình như bước vào một cảnh thần tiên; này là những phòng chứa đầy thạch nhũ, cái trắng cái đỏ, cái vàng, cái xám đen, cái lại trong vắt như thuỷ tinh, cái lóng lánh như có hào quang chiếu đính trên mình, cái thời nổi vảy như có vô vạn mảnh nước đá con con bao bọc chung quanh; bên chân lại vũng sâu thăm thẳm, thỉnh thoảng lại có hòn thạch nhũ lờ mờ dưới 10 thước nước, trên đầu thì đá cuốn vành bán nguyệt cao chất ngất trăm thước trên khoảng không. Về phần mĩ thuật thì nào các bức chạm khắc tỉ mỉ vào tường đá, cùng là những hàng chữ kỉ niệm của giống Chiêm Thành để lại. Về phần khoa học thì thiếu gì điều nên nghiên cứu, như các giống tôm cua lạ, các loài cá không mắt ăn mò trong xó tối, bao giống thực vật suốt đời sinh hoạt trong chốn u ám tối tăm…”.

20230708_113908.jpg
Đến nay Quảng Bình đã có hơn 1.000 hang động, đã khảo sát, đo vẽ được 447 hang động với chiều dài 246km. Trong thời gian 30 năm tới sẽ khảo sát đo vẽ thêm để đạt hơn 1.000 hang động. Trong ảnh là hang Thiên Đường dài 31,4km. Ảnh: MINH PHONG

Đặc biệt, tác giả Nguyễn Kinh Chi cho biết: “Ngoài cửa động có bài ca trù của Thúc Giạ Thị khắc vào bản gỗ rằng: Kỳ kỳ quái quái, động tiên này ngắm mãi lại càng xinh/ Đá vô tri ai khéo tạc nên hình, thêm vẻ lạ xanh xanh, vàng, trắng, đỏ/ Hiệp từ thời xuân lai yến vũ/ Kỷ trùng môn ngoại thính ngư ca/ Có thanh sơn, có lục thuỷ, có cổ thụ, kì ba, cờ tiên tử, rượu tiên gia chừng cũng có /Chén ngọc dịch, khuyên mời cho sẵn đó, khách đăng cao còn lắm độ trùng du/ Dặn lòng hai chữ “nam mô”.

Ngày nay bài Thúc Giạ Thị cũng không còn, tấm gỗ cũng không còn, chỉ còn hang động lưu dấu với thời gian. Nên chăng, Ban quản lý VQG Phong Nha – Kẻ Bàng sưu tầm lại khắc ở lối vào ra hang động để du khách chiêm ngưỡng.

Đồng Hới vừa có thành cổ vừa có khu thương mại

Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi rất dày công khảo sát, mô tả thành Đồng Hới từ gần 100 năm trước. Ngòi bút thong dong, vịnh thơ, mô tả lịch sử đủ đầy một cổ thành và một đô thị mới dựng xây.

“Khách du lịch đến Đồng Hới tức là đến tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình, tiếng Đồng Hới là tiếng người Pháp nói hai tiếng Động Hải ra, vì thành phố này ở trên một phần đất làng Động Hải. Đồng Hới ở trên bờ sông Nhật Lệ, là một chỗ đô hội nhỏ, nhân số, tính cả dân các làng phụ cận, thời ước chừng 3.000 người. Đồng Hới có thể chia ra hai khu vực, ở về phía Tây Bắc là thành trì, đó là khu vực chính trị. Ở trong thành, có toà sứ, dinh thự các quan nam, trường nam nữ Pháp – Việt, trại lính khố xanh… Về đời các Chúa Nguyễn, thành này có tên là luỹ Trấn Ninh. Năm 1774, họ Trịnh đổi làm đồn Động Hải. Năm Gia Long thứ 10 (1812), đắp thành đất. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824) mới xây thành gạch bây giờ. Thành xây hình vuông, bốn góc có rìa cạnh khế; chu vi hơn 465 trượng (hơn 1860 thước tây), cao một trượng. Mặt tiền ngoảnh về hướng tây, có nền cột cờ, ba mặt tả, hữu, hậu có ba cái cửa là nam môn, bắc môn và đông môn, ba cửa đều có cầu gạch thông ra ngoài, bốn mặt thành có hào sâu bao bọc”.

50708351672_4f8a501fb1_o.jpg
Làm nước mắm ở Đồng Hới, Quảng Bình, khoảng năm 1930-1933. Ảnh: Jean-Yves Claeys (1896 – 1979)

“Khu vực thương mại ở về phía đông nam. Khách du lịch theo lối cửa nam (cửa tả) ra khỏi cái cầu thời đến trước một toà nhà lớn, trên cửa có đề chữ “Bungalow”, đó là nhà quan cư để bộ hành sang trọng tới Đồng Hới, hoặc dùng cơm, hoặc ngủ. Từ đó theo con đường trên bờ hào mà đi ra phố, mươi lăm phố khách vài chục phố ta, ở rải rác trên mấy con đường chật hẹp, đó là phố phường Đồng Hới. Sự thương mại lớn thời chợ Ba Đồn chiếm cả, ở đây chỉ buôn bán các món tạp hoá vụn vặt không có gì đáng chú ý. Nói đến kĩ nghệ thời nên kể nước mắm và các đồ gỗ như hộp chạm Quảng Bình. Cách vài năm nay lại mới xuất hiện tại Đồng Hới một thứ dầu gọi là dầu khuynh diệp do hiệu Viễn Đệ chế tạo và phát hành”.

“Cách Đồng Hới chừng một cây số rưỡi là cửa biển Nhật Lệ. Người Tây, Nam đến mùa nóng nực thường xuống đó hứng gió và tắm mát. Cửa này nhỏ và cạn, tàu lớn không vào được, nhưng ghe thuyền trong Nam, ngoài Bắc ra vào buôn bán cũng đông. Về đời nhà Lý, cửa Nhật Lệ có tên là Trú Nha. Năm 1376, Vua Trần Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành, dừng lại ở cửa này một tháng để tập rèn quân lính. Năm 1468, Vua Lê Thánh Tông vào đánh Chiêm Thành cũng ghé lại vịnh thơ kỉ niệm. Vào giữa hai thế kỉ XVII, XVIII, đương thời Trịnh – Nguyễn đánh nhau, thời cửa Nhật Lệ là một nơi quan yếu, bên Nguyễn chằng dây sắt và đóng cột lim ở giữa cửa để ngăn ngừa thuyền Trịnh. Năm 1802, Vua Gia Long phá được thuyền Tây Sơn ở cửa này. Xem đó thời biết ngày xưa cửa Nhật Lệ có một cái cảnh tượng rất náo nhiệt vậy”.

11.jpg
Toà nhà Bungalow Đồng Hới vào năm 11920. Ảnh Tư Liệu

Nguyễn Kinh Chi cũng khuyên khách du lịch thời đó: “Đứng ở dưới cửa biển ngó lên phía nam thời khách du lịch thấy ở trên các động cát có dấu vết một cái thành cũ, đó là di tích lũy Nhật Lệ, là một cái lũy mà ngày xưa đã nổi tiếng vững vàng như núi, ở giữa hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài. Lũy này xây ra từ năm 1631 là năm 18 đời Chúa Nguyễn Sãi Vương. Nguyên đời bấy giờ chúa Đàng Ngoài là Trịnh Tráng đem quân vào đánh riết, Sãi Vương sợ, bèn sai quan Nội tán Đào Duy Từ đi xem hình thế núi sông, rồi đắp một cái lũy, dưới từ cửa biển Nhật Lệ, trên đến chân núi Đâu Mâu, bề dài hơn 3.000 trượng (hơn 12 cây số), bề cao 1 trượng 5 thước (6 thước tây), trong đổ đất, ngoài đóng cọc lim. Lũy chia năm cấp, voi ngựa qua lại thong thả. Mỗi một trượng (4 thước tây) có đặt súng thần công, cách 5 trượng hoặc 3 trượng (20 hoặc 12 thước tây) có lập một pháo đài chứa nhiều súng đại bác và đạn dược”.

1000054649.jpg
Cửa đông thành Đồng Hới ngày nay

Tác giả cũng chỉ dẫn: “Lũy Nhật Lệ cũng có tên là lũy Động Hải hay là lũy Trấn Ninh, dân Quảng Bình thường gọi là “lũy Thầy”, là chỉ ông Đào Duy Từ, người đắp ra lũy này vậy. Từ năm 1631 về sau, gặp bao lần binh hoả, lũy Nhật Lệ vẫn đứng vững vàng. Đến năm 1774 mới bị quân Trịnh triệt xuống, rồi được quân Tây Sơn dựng lên. Năm 1801, ông Nguyễn Ánh (sau là Vua Gia Long) sửa sang lại. Năm 1842, Vua Thiệu Trị nhân lúc kinh qua hạt Quảng Bình, xem thành quách, bèn sức cho bộ Công tu bổ lại và đổi tên là Định Bắc Trường thành. Vua lại đề thơ, khắc bia, hiện bia dựng ở bên Cầu Dài”.

Đến nay, trải qua dâu bể, Cầu Dài ở phường Đồng Hới nối qua Phú Hải, nay nhà cửa san sát, dấu tích vua đề thơ, khắc bia đã không còn, nên chăng, Đồng Hới phục dựng lại, âu cũng là để cho du khách thời nay biết những chốn du lịch gần 100 năm trước ở Đồng Hới vậy.

Nguyễn Kinh Chi (1899 – 1986) là một học giả, nhà y học, chính khách Việt Nam. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước tại làng Đông Thượng, xã Ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh nay là làng Thống Nhất, xã Ích Hậu, Lộc Hà, Hà Tĩnh. Trong suốt những năm chiến tranh từ 1946 đến 1954, ông có nhiều đóng góp cho cuộc kháng chiến của Việt Minh, trong điều trị sốt rét bằng thuốc ký ninh. Ông đã giữ nhiều cương vị lãnh đạo trong ngành y trước khi về nghỉ hưu năm 1965.

Tin cùng chuyên mục