Dư âm "Chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối"

Nhà báo, nhà văn Huỳnh Dũng Nhân có nhiều sách sau hàng chục năm viết văn làm báo. Nhưng với riêng tôi, "Chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối" có lẽ là cuốn sách tôi đợi chờ và yêu thích nhất. 

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Nam
  • Nữ miền Nam
  • Nữ miền Bắc
  • Nam miền Bắc

Bởi lẽ, trong cuốn sách này, Nhân đã viết về tuổi thơ của chúng tôi - lũ trẻ con em các phóng viên và cán bộ công nhân viên Báo Nhân Dân những năm chiến tranh khốc liệt. Khi mà cha anh chúng tôi đang cầm bút, cầm súng ở chiến trường, còn chúng tôi như Tố Hữu viết: “Chào các em, những đồng chí của tương lai/ Mang mũ rơm đi học đường dài…/ Truyện thần kỳ, dân tộc ta là vậy!” (Chào xuân 67).

CN4 tuy but.jpg

1.

Năm 1966, bố tôi chuẩn bị vào chiến trường Trị Thiên - Huế, ông đưa cả ba anh em tôi về sơ tán tại trại trẻ con em Báo Nhân Dân ở xã Thống Nhất, huyện Chương Mỹ, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).

Lúc đó, mẹ tôi cũng vừa vác ba lô đi mặt trận Lào để biểu diễn. Vậy là từ ấy, anh em chúng tôi cùng lũ trẻ ở khu sơ tán ở với những người bà, người mẹ mới, là cô Bình Định, là mẹ An, là cô Hồ Vân, cô Lý, cô Bích Diệp, rồi bà Tạ Quang Đạm, bà Hồ Học Lãm… tất cả vốn đều có công việc chính là viết báo, nhưng chiến tranh đã quàng lên cho các cô, các bà, các mẹ trách nhiệm làm người bảo mẫu, chăm sóc chúng tôi với tình cảm và sự ấm áp vô cùng.

Năm ấy tôi 14 tuổi, cùng với Trần Dũng, Nguyễn Nhất Phương thuộc vào lứa lớn nhất trại. Thực ra cũng có mấy anh lớn hơn như Đỗ Huy Thanh, Đỗ Huy Bắc, Hà Huy Hiệp... nhưng các anh ấy còn bà hay mẹ nên tuy sinh hoạt cùng trại nhưng lại ở bên ngoài. Huỳnh Dũng Nhân khi đó thuộc nhóm nhỏ nhất. Hàng đêm, tất cả lũ con trai chúng tôi nằm trên một tấm phản dài ở nhà bác Lê, một người đàn ông góa vợ và nhân từ vô cùng.

Còn ăn uống hay sinh hoạt thì ở một nhà thờ họ gần đấy và ngày ngày đi học ở trường cấp hai xã Tụy An. Ba đứa lớn nhất trại chúng tôi khi đó cùng học một lớp 7 do thầy Thọ chủ nhiệm. Ngay từ lúc đó, trong tâm hồn những đứa trẻ chúng tôi đã náo nức mỗi khi nghe tin chiến trường gửi về, đứa nào cũng mong ngóng một ngày được cầm súng ra trận.

Tuổi 14-15 của chúng tôi là như thế. Sớm khao khát và sẵn sàng cầm súng lên đường đi chiến đấu. Không chỉ bởi từ những bài học ở nhà trường, mà trước hết là từ chính cha anh chúng tôi, những nhà báo đều từng kinh qua cuộc kháng chiến chống Pháp, và tiếp tục đi vào cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Chú Nguyễn Văn Bổng, bố Nguyễn Nhất Phương, từng là Trưởng ban Nông thôn Báo Nhân Dân, đã vượt Trường Sơn từ rất sớm, tham gia chiến đấu và viết báo tận Nam bộ (bút danh Trần Hiếu Minh). Bố và chú bác Trần Dũng đều đang ở mặt trận, có người đang chiến đấu tận miền Tây Nam bộ xa xôi.

Tôi nhớ có một đêm, tôi và Trần Dũng đi gác đầu làng, hồi ấy chúng tôi hay chơi trò chơi quân sự, cũng thành lập đơn vị, cắt cử nhau đi canh gác như người lính thực thụ. Chúng tôi thấy cái Ninh Hà, một đứa trong trại chúng tôi đang đi cùng bố mẹ nó là chú Tuất Việt và cô Tuệ Quỳnh.

Dưới bóng trăng mờ, tôi thấy những vệt nước mắt trên má cô Tuệ Quỳnh, trên má cái Ninh Hà. Phải sau này tôi mới biết, chú Tuất Việt và cô Tuệ Quỳnh lên thăm con rồi rạng sáng mai, chú sẽ bí mật lên đường đi B mà không một ai được biết, kể cả là con như cái Ninh Hà.

Rồi đến lượt anh em tôi cũng có một cuộc chia tay nơi đầu thôn như thế. Đấy là một ngày chủ nhật, bố mẹ tôi chở nhau vào thăm anh em chúng tôi. Cũng tưởng như mọi cuộc thăm nom, mẹ tôi lại tụ tập lũ con gái lại, hát cho chúng nó nghe bất cứ bài nào mà chúng nó yêu cầu, kể cả của trẻ con hay người lớn, hát cả những bài tình ca quá lứa tuổi chúng nó. Còn bố tôi thì cứ đi quanh xem tờ báo tường của lũ trẻ con trong trại, trong đó đương nhiên có bài viết của anh em chúng tôi.

Đến khi tối mịt, cho con cái ăn uống xong xuôi, bố mẹ tôi mới ra về. Nhưng mẹ tôi “bấu” anh em tôi nói nhỏ, các con ra đầu thôn tiễn bố mẹ nhé. Thì hóa ra đấy là lần cuối, bố tôi vào thăm anh em chúng tôi để ngày mai lại lên đường quay vào chiến trường đang rất ác liệt, mà không ai dám chắc còn có ngày trở về hay không. Đêm ấy nơi đầu thôn, bố tôi lần lượt ôm hôn ba anh em tôi rất lâu, và nói thật đấy cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi được bố ôm lâu như thế…

Tác phẩm Chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối của tác giả Huỳnh Dũng Nhân được viết dưới dạng hồi ký, chứa đựng ký ức của những con em Báo Nhân Dân đã sống ít nhất gần 20 năm ở Hà Nội, trong đó có giai đoạn chiến tranh ném bom phá hoại miền Bắc của Mỹ khiến các em phải đi sơ tán ở vùng nông thôn (1965-1973).

Cuốn sách có nhiều câu chuyện cảm động về các liệt sĩ, có người là nhà báo của Báo Nhân Dân, có người là con em của các nhà báo…

2.

Sau thời gian ở trại trẻ, nhóm 4 người chúng tôi (Nguyễn Nhất Phương, Trần Dũng, Hà Huy Hiệp) lưu luyến xa trại trẻ để theo học cấp ba ở Trường Trưng Vương, Hà Nội (khi đó đang sơ tán tại xã Hồng Châu, huyện Thường Tín, Hà Tây). Rồi cũng từ đây, tôi, Trần Dũng và Hà Huy Hiệp khi học hết phổ thông cùng tình nguyện lên đường đi chiến đấu.

Hà Huy Hiệp cõng máy vô tuyến điện vượt Trường Sơn vào công tác tại phân xã TTXVN tại chiến trường Nam bộ. Trần Dũng nhập ngũ vào một sư đoàn bộ binh chiến đấu ở mặt trận miền Tây Nam bộ nơi bác ruột anh là Tư lệnh mặt trận. Đỗ Huy Thanh vào chiến trường Tây Nguyên. Còn tôi tham gia chiến đấu ở mặt trận Lào, phiên chế trong một tiểu đoàn pháo cao xạ bảo vệ con đường 7 vào Cánh đồng Chum.

Trong cuộc chiến tranh ác liệt, hai người bạn tuổi thơ của tôi là Trần Dũng và Đỗ Huy Thanh đã hy sinh… Như Huỳnh Dũng Nhân kể trong Chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối, Trần Dũng hy sinh ở Bạc Liêu trong một trận chống càn, câu cuối nó nhắn nhủ với đồng đội là “Tao thương nhất con Bình em tao. Mày có về nói nó cố gắng phấn đấu, cả nhà trông chờ vào nó”.

Huy Thanh hy sinh ở Tây Nguyên ngày 22-12-1972, tôi còn nhớ hôm nó lên đường, nó giấu gia đình không cho ai đi tiễn, phải đến khi tàu gần chạy, mẹ và em gái mới biết chạy đến, nhìn từng toa tàu để hy vọng thấy con mình…

Trong sách, có một câu hỏi mà Huỳnh Dũng Nhân gọi là cháy lòng: “Sao hồi đó khó khăn vất vả là thế mà các bậc phụ huynh Báo Nhân Dân ai cũng nuôi con cái lớn thành người?”. Có đến ngàn lẻ một đáp án cho câu hỏi như vậy.

Tuy nhiên, có lẽ với chúng tôi, đó là những tấm gương của người lớn, đó là sự hy sinh vì trách nhiệm với Tổ quốc, là sự yêu thương, quý mến của cha mẹ, các cô, các bác khi đó, đã dành cho chúng tôi mọi sự ưu ái có thể trong những ngày khó khăn gian khổ đó. Với tình người được tác giả nhấn mạnh trong phần kết, tôi tin rằng một thế hệ mới cũng sẽ tiếp nối truyền thống của một thời mũ rơm mũ cối, đóng góp cho tương lai đất nước như thế hệ cha anh.

Tin cùng chuyên mục