Hàng giá rẻ bủa vây
Tại Diễn đàn CEO 2025 do Báo Sài Gòn Giải Phóng phối hợp Viện Nghiên cứu phát triển TPHCM (HIDS) và Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM (HUBA) tổ chức mới đây, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch HUBA, chỉ ra thực tế đáng báo động: 4 tháng đầu năm 2025, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường đã gần bằng một nửa cả năm 2024. Sức đề kháng của doanh nghiệp đang bị bào mòn nghiêm trọng. Đây không còn là hiện tượng ngắn hạn, mà đang diễn ra liên tục trong nhiều năm trở lại đây.
Theo ông Hòa, một trong những yếu tố bào mòn ấy là sự tràn ngập của hàng giá rẻ từ các quốc gia trong khu vực. Trong bối cảnh Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) áp rào cản thương mại đối với Trung Quốc, hàng hóa của nước này ồ ạt tìm đường vào các thị trường thứ cấp, trong đó có Việt Nam.
Không ít mặt hàng tiêu dùng, vật liệu công nghiệp và thực phẩm chế biến đang được chào bán với giá rẻ hơn hàng Việt từ 20%-40%. Trong khi người tiêu dùng trong nước vẫn thắt chặt chi tiêu, sự chênh lệch giá trở thành yếu tố quyết định hành vi mua sắm, đẩy hàng Việt vào thế lép vế.

Ghi nhận thực tế cho thấy, hàng tiêu dùng giá rẻ đang tràn ngập từ chợ truyền thống đến các nền tảng thương mại điện tử. Chị Đỗ Thị Tiểu Quyên, tiểu thương kinh doanh tại chợ Phạm Thế Hiển (quận 8, TPHCM), nói: “Tại chợ truyền thống, sản phẩm quần áo dù bán giá vốn cũng không thể cạnh tranh về giá với hàng quần áo bán trên sàn thương mại TikTok. Đó là lý do tại sao nhiều tiểu thương đã phải đóng cửa sạp hàng”.
Dưới góc nhìn của doanh nghiệp sản xuất, ông Phạm Văn Việt, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Việt Thắng Jean, cho biết, ngành dệt may Việt Nam hiện có khoảng 11.000 doanh nghiệp, trong đó khoảng 6.000 là hộ gia đình. Tất cả vẫn là lao động truyền thống, chỉ có khoảng 6% chuyển sang sản xuất bán tự động và tự động.
Trong khi đó, Trung Quốc sản xuất quy mô lớn và áp dụng công nghệ hiện đại, giúp họ cạnh tranh mạnh mẽ về giá. Ví dụ, đơn giá gia công tại TPHCM là 2,2 USD/sản phẩm, ở Hà Nội là 1,9 USD/sản phẩm, nhưng ở Trung Quốc chỉ là 1,7 USD cho cùng một sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến. Chưa kể, nguồn nguyên liệu tại chỗ giá rẻ, logistics thuận lợi đã giúp hàng nhập khẩu đang có giá thấp hơn so với trong nước.
Thông tin từ Cục Thống kê, Bộ Tài Chính cho thấy, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong 5 năm gần đây tăng đều mỗi năm. Chỉ riêng 5 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 170 tỷ USD, tăng hơn 18% so với cùng kỳ 2024. Đáng chú ý, nhóm hàng tiêu dùng chiếm hơn 6% tổng kim ngạch, cho thấy hàng nhập khẩu, nhất là hàng giá rẻ đang chiếm lĩnh thị trường nội địa ngày càng mạnh mẽ.
Hỗ trợ kịp thời, thực chất và linh hoạt
Trước thực trạng trên, nhiều ý kiến của doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ cho rằng không thể tự mình “bơi ngược dòng” nếu không có những cơ chế hỗ trợ kịp thời, thực chất và linh hoạt. Theo ông Nguyễn Ngọc Hòa, thay vì dàn trải hỗ trợ, Nhà nước cần phân nhóm doanh nghiệp theo quy mô, xây dựng chính sách chuyên biệt cho từng nhóm.
“Chúng ta không thể áp một bộ chính sách cho cả tập đoàn lớn và hộ kinh doanh siêu nhỏ, như vậy là bất công bằng chính sách,” ông Nguyễn Ngọc Hòa nói.
Một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là khả năng tiếp cận vốn. Các ngân hàng vẫn đòi hỏi tài sản thế chấp, trong khi doanh nghiệp nhỏ hầu như không còn dư địa. Vì vậy, HUBA kiến nghị triển khai xếp hạng tín dụng mở để doanh nghiệp có hồ sơ tín dụng tốt có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp. Đồng thời, cần thiết lập diễn đàn công, tư định kỳ theo từng ngành hàng để cùng tháo gỡ vướng mắc theo chiều sâu, không để doanh nghiệp phải tự mày mò ứng phó trong thế giới đang thay đổi quá nhanh.
Đặc biệt, trong bối cảnh chi phí tuân thủ tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội và quản trị), CBAM (cơ chế điều chỉnh biên giới carbon), kiểm định, logistics… ngày càng lớn, cần xây dựng các nền tảng dùng chung, ví dụ như trung tâm kiểm định tập trung, hệ thống kho lạnh chia sẻ, nền tảng thương mại điện tử tích hợp - nơi doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận chi phí thấp hơn. Đây là cách hiệu quả nhất để giảm chi phí đầu vào và tạo lợi thế cạnh tranh bền vững cho hàng Việt.
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Anh Đức, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, cho rằng, thị trường nội địa cần được tái cấu trúc để trở thành thị trường ưu tiên cho hàng Việt. Các hệ thống phân phối hiện đại, từ chợ đầu mối đến siêu thị, cần có chính sách ưu tiên trưng bày, phân phối hàng nội. Các đơn vị như SATRA, Saigon Co.op, Tập đoàn BRG… được kỳ vọng là đầu kéo trong việc kiến tạo hệ sinh thái tiêu dùng hàng Việt vững mạnh.
Ông Lâm Quốc Thanh, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn TNHH MTV (SATRA), cho biết, đơn vị này đang mở rộng hệ thống bán lẻ, đẩy mạnh liên kết cung cầu, đồng thời đầu tư chuyển đổi số trong phân phối để giúp hàng nội đến tay người tiêu dùng nhanh hơn, hiệu quả hơn.
“Các chương trình kích cầu tiêu dùng nội địa cần được triển khai mạnh mẽ hơn. Tăng chi tiêu công, giảm thuế giá trị gia tăng tạm thời cho hàng sản xuất trong nước, tổ chức hội chợ hàng Việt khắp các vùng miền… là những giải pháp cấp thiết để “bơm máu” cho thị trường nội địa, giúp doanh nghiệp có doanh số, có dòng tiền để tái đầu tư”, ông Nguyễn Anh Đức đề xuất.
Nếu không hành động kịp thời, hàng Việt không chỉ mất chỗ đứng trên thị trường quốc tế, mà còn có nguy cơ bị đánh bật khỏi sân nhà. Theo đó, cần có một chiến lược tổng lực, phối hợp từ chính sách, tín dụng, phân phối đến truyền thông để “giải phóng” hàng Việt khỏi tình thế hiện nay, khôi phục niềm tin thị trường và tạo sức bật mới cho nền sản xuất quốc gia.