Thiếu hụt trên 100.000 giáo viên mầm non, phổ thông
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày tờ trình dự thảo nghị quyết nêu rõ, dự thảo nhằm tháo gỡ các “điểm nghẽn” về thể chế, nhân lực, tài chính và hội nhập quốc tế đang cản trở sự phát triển đột phá, bộc lộ sự bất tương thích giữa tầm quan trọng chiến lược của giáo dục với cơ chế quản lý hành chính hiện nay. Trong đó, có việc giải quyết thực trạng đáng báo động về đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý: thiếu hụt nghiêm trọng giáo viên mầm non và phổ thông với quy mô trên 100.000 người, trong khi chính sách đãi ngộ, tiền lương, phụ cấp chưa đủ hấp dẫn, dẫn tới tình trạng giáo viên nghỉ việc, chuyển việc, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy học và triển khai chương trình mới.
Dự thảo cũng nhằm giải quyết hạn chế về nguồn lực tài chính và đầu tư: chi ngân sách nhà nước cho giáo dục chưa đạt mức tối thiểu 20% tổng chi theo chủ trương; đầu tư cho giáo dục đại học giảm mạnh, suất đầu tư bình quân chỉ khoảng 1.100 USD/sinh viên/năm, thuộc nhóm thấp nhất khu vực, chưa tương xứng với mục tiêu hội nhập và nâng tầm đại học Việt Nam.
Việc ban hành nghị quyết đặc thù của Quốc hội là yêu cầu cấp thiết nhằm khai thông điểm nghẽn, tạo hành lang pháp lý mới, đủ mạnh để chấn hưng và phát triển đột phá giáo dục Việt Nam trong giai đoạn tới.
Dự thảo có những quy định nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, trong đó có nhóm chính sách về phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và nhân lực giáo dục: quy định các chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo và nhân viên trong các cơ sở giáo dục; trao thẩm quyền cho giám đốc Sở GD-ĐT trong tuyển dụng, điều động, biệt phái để bảo đảm thống nhất quản lý nhân lực ngành; ban hành cơ chế thu hút, trọng dụng và phát triển nhân lực chất lượng cao trong giảng dạy, nghiên cứu, quản lý.
Thống nhất một bộ sách giáo khoa trên toàn quốc
Cùng với đó là nhóm chính sách về đổi mới cơ chế, chương trình và hệ thống giáo dục: quy định cơ chế bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông, đại học và giáo dục thường xuyên; tổ chức sử dụng thống nhất một bộ sách giáo khoa trên toàn quốc; xây dựng hệ thống giáo dục mở, liên thông, thúc đẩy học tập suốt đời và xã hội học tập.
Bên cạnh đó là nhóm chính sách về hợp tác và hội nhập quốc tế trong GD-ĐT: quy định cơ chế thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài; khuyến khích liên kết, thành lập phân hiệu cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam và cơ sở giáo dục Việt Nam ở nước ngoài; mở rộng hợp tác đào tạo, thúc đẩy “xuất khẩu giáo dục”, nâng cao vị thế giáo dục Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Dự thảo cũng có nhóm chính sách về tài chính, đầu tư và ưu đãi nguồn lực cho giáo dục như: quy định tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đạt tối thiểu 20% tổng chi, trong đó bảo đảm tỷ lệ chi đầu tư phát triển và ưu tiên cho giáo dục mầm non, phổ thông, vùng khó khăn; ban hành cơ chế tài chính khuyến khích hợp tác công – tư, xã hội hóa; ưu đãi đặc thù về đất đai, thuế, tín dụng cho cơ sở giáo dục công lập và không vì lợi nhuận, bảo đảm công bằng và bền vững trong đầu tư cho giáo dục.
Cùng với đó, dự thảo nghị quyết quy định điều khoản chuyển tiếp về sắp xếp tổ chức hệ thống giáo dục; áp dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất; chấm dứt hoạt động của hội đồng trường trong cơ sở giáo dục công lập (trừ trường có thỏa thuận quốc tế); thực hiện mô hình bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục, bảo đảm thống nhất lãnh đạo, quản trị và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Dự thảo cũng quy định những vấn đề đã có quy định nhưng chưa phù hợp, như việc thống nhất chương trình, sách giáo khoa và mô hình đào tạo. Hiện pháp luật chưa cho phép Bộ GD-ĐT quyết định sử dụng một bộ sách giáo khoa thống nhất, dẫn đến thiếu ổn định, tốn kém xã hội. Do đó, dự thảo bổ sung thẩm quyền này để bảo đảm tính thống nhất, tiết kiệm và hiệu quả. Đồng thời, dự thảo quy định đổi mới mô hình trường chuyên, trường năng khiếu, khắc phục sự chênh lệch trong chất lượng, cơ cấu tuyển sinh; thành lập hội đồng kỹ năng nghề quốc gia để thống nhất với chính sách mới của Luật Việc làm 2025...
Tăng đãi ngộ, đòn bẩy giúp giải quyết việc thiếu hụt giáo viên vùng khó khăn
Cũng trong sáng 17-11, các đại biểu (ĐB) Quốc hội thảo luận ở tổ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển GD-ĐT.
Ủng hộ miễn phí sách giáo khoa
Dự thảo nghị quyết nêu, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quyết định một bộ sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông sử dụng thống nhất toàn quốc, thực hiện từ năm học 2026-2027; thực hiện cung cấp miễn phí SGK cho học sinh hoàn thành vào năm 2030; đối với các địa phương có điều kiện thì sẽ thực hiện miễn phí SGK từ năm học 2026-2027.
ĐB Phạm Khánh Phong Lan (TPHCM) tán thành quy định đến 2030 miễn phí SGK, song đề nghị không quy định “địa phương có điều kiện” miễn phí trước lộ trình mà chỉ cần “khuyến khích các địa phương miễn phí SGK trước lộ trình”. ĐB Khương Thị Mai (Ninh Bình) cho rằng, việc giao Bộ trưởng Bộ GD-ĐT quyết định thực hiện 1 bộ SGK từ năm học 2026-2027 và miễn học phí là mong muốn của đông đảo cử tri. “Nhưng thực hiện miễn học phí SGK từ năm học sau thì có thể triển khai thuận lợi ở các tỉnh, thành lớn, còn ở những tỉnh, thành còn khó khăn sẽ có khó khăn, do đó cần có hướng dẫn cụ thể”, ĐB phát biểu.
Việc kết thúc hội đồng trường được ĐB Phạm Khánh Phong Lan nhận định là vội vàng, đột ngột. “Chúng ta cho rằng, hội đồng trường không giúp đạt được mục tiêu tăng cường tính tự chủ. Sau một thời gian thấy không tự chủ hơn mà thêm tầng nấc trung gian. Nhưng bỏ đi thì phải có gì thay thế? Và nội dung này thì cho vào luật, nghị quyết là tháo gỡ khó khăn cấp bách, trước mắt. Nếu muốn bỏ hội đồng trường thì phải có tổng kết và sửa đổi trong luật”, ĐB Phạm Khánh Phong Lan nhận xét.
Tán thành giao giám đốc sở GD-ĐT quyền tuyển dụng, điều động nhà giáo
ĐB Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cũng đánh giá cao việc dự thảo giao Giám đốc Sở GD-ĐT được tuyển dụng, quản lý đội ngũ nhà giáo trong khu vực cấp tỉnh, đây là một trong những chính sách đột phá nhất. Sở GD-ĐT là nơi hiểu rõ nhất, nắm rõ nhất, đưa ra yêu cầu tuyển dụng chính xác nhất và sẽ tuyển được những con người phù hợp nhất với yêu cầu của các trường.
Theo dự thảo, UBND xã được quyền điều động, thuyên chuyển giáo viên trường thuộc xã quản lý. Tuy nhiên, ĐB Hoàng Văn Cường đề nghị nên để sở GD-ĐT là đơn vị điều động, thuyên chuyển cho tất cả các trường trên địa bàn tỉnh, chứ không giao cho UBND xã có quyền thuyên chuyển, điều động giáo viên ở xã. Làm như vậy, để sở GD-ĐT có quyền trong tuyển dụng, điều động, bố trí con người tại những khu vực thiếu và thừa”, ĐB Hoàng Văn Cường nêu quan điểm và cho rằng, khi giao cho một cơ quan tuyển dụng sẽ tạo ra một mặt bằng chung cho đội ngũ giáo viên trong tỉnh, không còn tình trạng chất lượng chênh lệch giữa các nơi. Đồng thời, ĐB cũng bày tỏ quan điểm ủng hộ cơ chế như trong dự thảo về quy định định “giao cho các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp được quyền tự xác định vị trí việc làm, tự ký hợp đồng với các chuyên gia nước ngoài và miễn giấy phép lao động trong 3 năm” để mời gọi các chuyên gia bên ngoài.
Ở một khía cạnh liên quan, một trong những điểm đáng chú ý trong dự thảo nghị quyết là việc tập trung vào phát triển nguồn nhân lực giáo dục, đặc biệt là các chính sách ưu đãi cho giáo viên và cán bộ giảng dạy ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, khó khăn, biên giới và hải đảo. Theo đó, nghị quyết quy định các mức phụ cấp ưu đãi nghề từ 30% đến 70% cho giáo viên ở các khu vực khó khăn và 30% đến 100% cho các cán bộ phục vụ, giảng dạy tại các khu vực đặc biệt.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho rằng, đây là một trong những chính sách đột phá nhằm khuyến khích giáo viên gắn bó lâu dài với ngành, đặc biệt là ở những nơi có điều kiện làm việc và sinh hoạt khó khăn. Chính sách này được xem là đòn bẩy quan trọng giúp giải quyết tình trạng thiếu hụt giáo viên ở các khu vực khó khăn. Việc tăng cường đãi ngộ cho đội ngũ giáo viên không chỉ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn đảm bảo sự công bằng trong cơ hội học tập của học sinh, sinh viên ở mọi vùng miền.
Trong khi đó, ĐB Nguyễn Anh Trí (Hà Nội) đề nghị cần phải làm rõ nội dung phát triển nguồn nhân lực, có đủ giáo viên đứng lớp ở các địa phương. Cùng với đó, trong nội dung nghị quyết, phải thể hiện được có đủ trường cho học sinh phổ thông các cấp ở tất cả địa phương trong cả nước. Nếu giải quyết được các vấn đề này sẽ hạn chế được những bất cập trong trường lớp.
Với nội dung hỗ trợ người học và đào tạo nhân lực trình độ cao, ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM) nhận định, hiện tại, nguồn vốn vay cho sinh viên từ Ngân hàng Chính sách xã hội rất hạn hẹp, và mức cho vay chưa phù hợp với học phí tăng cao và chi phí sinh hoạt hiện nay. ĐB Trần Hoàng Ngân đề nghị điều chỉnh mức vay, tính toán lãi suất, và thời gian hoàn trả sau khi tốt nghiệp phù hợp hơn.