Phát biểu khai mạc hội thảo, Viện trưởng CIEM Trần Thị Hồng Minh nhận định: “Mặc dù được đánh giá là một trong số ít các quốc gia thành công trong việc kiểm soát dịch bệnh, tạo tiền đề cho phục hồi và thúc đẩy sản xuất trong nước, tái mở cửa kinh tế một cách an toàn, song Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch dài hơi hơn, tránh rủi ro “cạn kiệt” không gian chính sách và giảm động lực cải cách thể chế kinh tế”. Dưới góc nhìn của CIEM, nếu nền kinh tế chậm phục hồi, cải cách thể chế kinh tế cũng sẽ thiếu sự đồng thuận và động lực cần thiết và/hoặc không tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
Đáng lưu ý, tổng vốn phát triển toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2020 tăng 5,7%, thấp hơn 4,5 điểm phần trăm so với năm 2019. Tỷ trọng đầu tư/GDP năm 2020 đạt 34,4%. Hiệu quả đầu tư tính theo hệ số ICOR sụt giảm đột ngột trong năm 2020, hệ số ICOR tăng lên tới gần 14,3. Vốn FDI đăng ký đạt 28,5 tỷ USD, giảm 25%; vốn FDI thực hiện đạt 19,98 tỷ USD...
Nhóm nghiên cứu CIEM đã xây dựng 3 kịch bản cho giai đoạn 2021-2023 (ứng với các giải pháp bình thường như hiện nay; nới lỏng tài khoá và tiền tệ; nới lỏng tài khoá và tiền tệ cùng với cải cách thể chế).
Theo đó, tăng trưởng GDP của 3 năm từ 2021-2023 ở kịch bản “bình thường” lần lượt là 5,98%; 6,45%; 6,61%. Trung bình cả giai đoạn 3 năm ở kịch bản này là 6,35%. Ở kịch bản nới lỏng tài khoá và tiền tệ, GDP tăng 6,43%; 6,80% và 6,83%; trung bình cả 3 năm là 6,69%. Ở kịch bản 3, là 6,47%; 6,88% và 6,92% với trung bình cả giai đoạn 3 năm là 6,76%.
Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp của CIEM, ông Nguyễn Anh Dương bình luận: “Nếu chỉ nới lỏng tài khoá và tiền tệ, tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn, song đi kèm với áp lực lạm phát lớn hơn. Nếu nới lỏng tài khoá và tiền tệ cùng với cải cách thể chế, tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn và đi kèm với cải thiện đáng kể về năng suất. Đây cũng là cách để phục hồi tăng trưởng nhanh và bền vững hơn, ngay cả khi kinh tế thế giới còn nhiều bất định”.