Nhiều bất lợi cho hàng hóa xuất khẩu Việt
Ông Chu Thắng Trung, Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công thương cho biết, ngay khi xảy ra cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và Mỹ tăng cường áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với hàng hàng hóa Trung Quốc thì thị trường thế giới cũng xuất hiện xu thế bảo hộ trên toàn cầu. Mặt khác, sự xung đột thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ đã kéo theo nguy cơ Trung Quốc xuất tràn hàng hóa qua nước thứ 3, dẫn đến nguy cơ nước thứ 3 cũng bị Chính phủ Mỹ áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.
Trên thực tế, Việt Nam đang gánh chịu hệ quả nặng nề từ các chính sách phòng vệ thương mại mà Mỹ đang áp dụng. Đơn cử, ngay sau khi Mỹ áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại chống bán phá giá với thép nhập khẩu của Trung Quốc theo đạo luật 232, thì nhiều mặt hàng thép nhập khẩu từ Việt Nam đã bị áp dụng mức thuế chống bán phá giá lên đến 250%.
Chưa hết, hiện hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam đang bị Chính phủ Mỹ điều tra phòng vệ thương mại chống bán phá giá 14 vụ và phòng vệ thương mại chống trợ cấp là 6 vụ. Trong đó, có 13/14 vụ phòng vệ thương mại chống bán phá giá và 6/6 vụ phòng vệ thương mại chống trợ cấp là bị kiện và điều tra đồng thời với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Ở góc độ doanh nghiệp, đại diện Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu gỗ Việt Nam cho biết thêm, lo ngại nhất của doanh nghiệp xuất khẩu là biện pháp phòng vệ thương mại chống lẩn tránh thuế do Bộ Thương mại và Hải quan Mỹ thực hiện. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu bị kết luận là có lẩn tránh thuế sẽ phải chịu toàn bộ số thuế đang bị đánh ở quốc gia đang lẩn tránh, gây thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp. Thậm chí, có những doanh nghiệp sẽ bị phá sản hoặc phải rút hàng vĩnh viễn ra khỏi thị trường Mỹ. Hiện đã có một số sản phẩm nước ta bị áp dụng biện pháp phòng vệ này, như ống thép dẫn dầu, ván ép gỗ…
Luật sư Nguyễn Thị Phương Thảo, Văn phòng Luật sư IDVN, cho biết, trong các vụ kiện phòng vệ thương mại nói chung, doanh nghiệp Việt gặp phải nhiều bất lợi do Chính phủ Mỹ vẫn chưa công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Theo đó, cơ quan điều tra không thừa nhận tất cả các khoản chi phí sản xuất do doanh nghiệp đưa ra. Họ chỉ chấp nhận những chi phí đầu vào và các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Mặt khác, ở mức giá đối chiếu, họ thường lấy từ quốc gia có nền kinh tế tương đồng là Ấn Độ, Banglades. Trong khi đó, hai quốc gia này có chi phí nhân công lao động thấp hơn rất nhiều so với nhân công lao động nước ta, công nghệ sản xuất cũng lạc hậu hơn….
Trường hợp các vụ kiện liên quan đến chống trợ cấp còn khó khăn hơn khi Chính phủ Mỹ cho rằng Việt Nam không có thị trường về đất đai, tài chính. Thực tế này khiến những khoản chi phí thuê đất của doanh nghiệp tại các khu chế xuất, khu công nghiệp mà chủ đầu tư hạ tầng là doanh nghiệp nhà nước, hoặc các khoản vay vốn đầu tư của doanh nghiệp tại các ngân nhà nước đều bị xếp vào diện chi phí được hưởng ưu đãi và có trợ cấp.
Theo nhìn nhận chung của các chuyên gia kinh tế, những căn cứ thông tin trong hoạt động điều tra phòng vệ thương mại mà Chính phủ Mỹ đang áp dụng đã không đánh giá toàn diện chi phí sản xuất của doanh nghiệp Việt. Hay nói cách khác, chi phí sản xuất thực của doanh nghiệp Việt không được chấp nhận, dẫn đến nguy cơ bị kết luận áp mức thuế bất lợi. Không những thế, việc áp mức thuế cao này còn tạo hiệu ứng domino đến các thị trường nhập khẩu khác, gây bất lợi cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Tăng kiểm soát chéo hành vi gian lận thương mại
Theo ông Chu Thắng Trung, hiện các quốc gia áp dụng nhiều biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam là Mỹ, châu Âu, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Canada... Có đến 30% các vụ kiện phòng vệ thương mại liên quan đến sản phẩm thép. Còn lại tập trung vào hàng hóa của các ngành hóa chất, sản phẩm chế biến, chế tạo, gỗ....
Nguy cơ đối mặt với rào cản thương mại ngày càng nhiều nhưng khả năng chống đỡ của doanh nghiệp nội rất yếu. Trước hết, doanh nghiệp nằm trong diện bị kiện, bị điều tra thường không được tiếp cận thông tin ngay từ đầu. Thậm chí, cơ quan chức năng của Chính phủ Mỹ không gửi bất kỳ thông báo nào đến doanh nghiệp. Trong quá trình điều tra, họ cũng không minh bạch cách thức thu thập thông tin cũng như nội dung thông tin.
Về phía doanh nghiệp, cũng phải thấy rằng, doanh nghiệp còn lúng túng khi đối mặt với các vụ kiện phòng vệ thương mại. Một số ít doanh nghiệp chọn cách chấp nhận bỏ cuộc vì không có kế hoạch tài chính theo đuổi vụ kiện. Do đó, đến khi công bố kết quả hoặc phải điều trần thì khả năng thắng kiện doanh nghiệp nước ta không cao. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp bị kiện mà còn ảnh hưởng chung đến doanh nghiệp toàn ngành.
Luật sư Nguyễn Thị Phương Thảo nhấn mạnh, để có thể đối phó với vụ kiện phòng vệ thương mại ngày càng dày đặc trong thời gian tới, doanh nghiệp phải đảm bảo chi tiết hóa hệ thống số liệu chi phí từ khâu đầu vào, sản xuất đến tiêu thụ cho từng mã sản phẩm. Doanh nghiệp cũng phải chủ động nắm bắt thông tin, cách thức ứng phó với các vụ kiện để tận dụng các cơ chế và công cụ chính sách thương mại cho phép bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Song song đó, cần thiết phải đầu tư nguồn lực vốn nhất định để hoàn thiện bộ phận phụ trách pháp lý và xây dựng chiến lược kháng kiện dài hạn. Đặc biệt, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề phải liên kết chặt chẽ, tăng cường kiểm soát chéo hoạt động sản xuất, xuất khẩu của nhau. Đây là giải pháp nhằm tránh nguy cơ doanh nghiệp trong nước bắt tay hoặc thỏa hiệp với hành vi gian lận xuất xứ hàng hóa, gây thiệt hại nặng nề lợi ích toàn ngành do bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại tại thị trường xuất khẩu.
Về phía Bộ Công thương cho biết, bộ đang xây dựng hệ thống thông tin cảnh báo thông tin về phòng vệ thương mại. Hệ thống này giúp các doanh nghiệp chủ động nhận diện nguy cơ có thể bị kiện phòng vệ thương mại và những khả năng ứng phó từ kinh nghiệm những vụ kiện thực tế mà các doanh nghiệp đã và đang vấp phải.
Ở chiều ngược lại, hệ thống cảnh báo này cho phép doanh nghiệp trong nước có thể theo dõi hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp nước ngoài. Từ đó, sớm phát hiện những nguy cơ gây hại cũng như thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ hàng hóa trong nước.