Đại đa số giáo viên khẳng định đứng lớp vì lòng yêu nghề, yêu trò

Đây là phần lớn ý kiến của giáo viên trong khảo sát từ đề án khoa học công nghệ cấp Đại học Quốc gia (ĐHQG) TPHCM năm 2024 mang tên “Nghiên cứu đời sống giáo viên tại tỉnh Bình Thuận, Tây Ninh và Hậu Giang”. Đề án do Viện Phát triển chính sách ĐHQG TPHCM (IDP-VNU) thực hiện.

Đại học Quốc gia TPHCM công bố kết quả nghiên cứu ngày 18-11. Ảnh: THANH HÙNG
Đại học Quốc gia TPHCM công bố kết quả nghiên cứu ngày 18-11. Ảnh: THANH HÙNG

Giáo viên đối mặt nhiều loại áp lực, bị quá tải trong công việc

IDP-VNU đã phỏng vấn các nhà quản lý giáo dục, giáo viên các cấp và khảo sát diện rộng 12.505 giáo viên tại 3 địa phương trên từ tháng 9 đến tháng 10-2024 (thời điểm chính sách tiền lương mới có hiệu lực), đồng thời phỏng vấn 132 các nhà quản lý giáo dục, giáo viên các cấp. Nội dung phỏng vấn và khảo sát liên quan thu nhập, đời sống, tinh thần, động lực theo nghề và mong muốn cải thiện chính sách của giáo viên.

462539075_540340478789082_6069784446338616029_n.jpg
Nhiều áp lực của giáo viên từ kết quả khảo sát. Ảnh: THANH HÙNG

Kết quả phỏng vấn cho thấy, từ khi thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng/tháng lên 2,34 triệu đồng/tháng (áp dụng từ ngày 1-7-2024), thu nhập của giáo viên được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, thu nhập của nghề giáo chỉ đáp ứng trung bình 51,87% nhu cầu chi tiêu hàng tháng của gia đình giáo viên đối với nhóm không có làm thêm các nghề phụ. Đối với nhóm giáo viên có làm thêm nghề phụ, chỉ đáp ứng khoảng 62,55%. Riêng giáo viên có thâm niên dưới 10 năm đánh giá thu nhập của nghề giáo chỉ đáp ứng trung bình 45,7% nhu cầu chi tiêu hàng tháng của gia đình.

Đánh giá mức độ áp lực tài chính (thu nhập từ nghề giáo không trang trải đủ cuộc sống) của giáo viên có mức điểm bình quân khá cao 3,61/5 (5 là rất áp lực). Trong đó, 44% giáo viên cho biết họ đang chịu áp lực đến rất áp lực; chỉ có 19% giáo viên cho rằng họ đang thoải mái và rất thoải mái, không bị áp lực tài chính.

Ngoài áp lực về tài chính, giáo viên còn gặp áp lực bởi các hoạt động chuyên môn như: chuẩn bị bài giảng, họp bộ môn, các công việc hành chính, xã hội khác; áp lực liên quan các quy định về chuẩn mực nhà giáo, thái độ với học sinh… Hiện nay giáo viên đang bị áp lực lớn nhất từ phụ huynh học sinh. Có đến 70,21% giáo viên cho rằng họ đang bị áp lực hoặc rất áp lực từ phụ huynh học sinh. Đồng thời 40,63% giáo viên cho biết họ từng có ý định chuyển nghề do bạo lực tinh thần từ phụ huynh.

Ngoài ra, kết quả khảo sát cũng cho thấy có 71,83% giáo viên bị quá tải trong công việc, tỷ lệ này ở giáo viên mầm non là 87,65%. Trong khi đó, gần 70% giáo viên mầm non không có thời gian hoạt động thể dục thể thao, giải trí và 46% giáo viên ở các cấp khác dành dưới 10% thời gian trong ngày cho hoạt động thể dục thể thao, giải trí. Thời gian giáo viên dành cho chăm sóc gia đình chỉ chiếm 15,81% quỹ thời gian. Đáng chú ý, đối với giáo viên hệ mầm non, con số này chỉ bằng khoảng 1/3 so với mặt bằng chung.

25,4% giáo viên dạy thêm trong trường

Khảo sát từ đề tài cho thấy, có 25,4% giáo viên được khảo sát cho biết đã dạy thêm trong trường và 8,2% có dạy thêm ngoài trường. Việc dạy thêm chủ yếu tập trung vào các môn học như Toán, Văn, Anh Văn, Lý, Hoá. Thời gian dạy thêm của giáo viên cũng tăng dần theo các cấp học. Theo đó, giáo viên dạy thêm ở cấp tiểu học là 8,6 giờ/tuần, cấp trung học cơ sở là 13,75 giờ/tuần và cấp phổ thông trung học là 14,91 giờ/tuần.

Các loại hình dạy thêm của giáo viên cũng rất đa dạng, từ dạy thêm tại trường, tại nhà, trung tâm, online và trên các kho dữ liệu học tập mở. Việc dạy thêm tại trường chủ yếu là các hoạt động dạy phụ đạo, tăng tiết, ôn thi tốt nghiệp với sự thống nhất tổ chức của nhà trường và phụ huynh học sinh. Dạy thêm tại trung tâm thường là nhóm giáo viên phụ trách môn ngoại ngữ.

Mặc dù việc dạy thêm tại nhà vẫn đang bị cấm nhưng các giáo viên vẫn tham gia dạy bằng hình thức trực tiếp hoặc online. Kết quả khảo sát cho thấy 63,57% giáo viên bày tỏ nguyện vọng được hợp pháp hóa việc dạy thêm, bao gồm cả dạy thêm ở nhà và dạy thêm online, để tăng thu nhập từ chính năng lực của mình.

94,23% giáo viên cho biết họ tiếp tục theo đuổi nghề vì lòng yêu nghề, yêu trò

Dù thu nhập vẫn chưa đáp ứng nhu cầu cuộc sống cũng như gặp nhiều áp lực trong công việc nhưng có tới 94,23% giáo viên cho biết họ tiếp tục theo đuổi nghề vì lòng yêu nghề, yêu trò. Gần 50% giáo viên cho rằng họ gắn bó với nghề vì mức thu nhập hợp lý và vì các chính sách đãi ngộ tốt. Có thể thấy, yêu nghề, yêu trò, xem nghề giáo là nghề cao quý chính là lý do quan trọng nhất để giáo viên gắn với nghề chứ không phải thu nhập hay các chính sách đãi ngộ.

462550158_562077729845987_4454128327203693998_n.jpg
Những lý do giáo viên chọn nghề giáo. Ảnh: THANH HÙNG

Mặt khác, chính sách quan trọng nhất được 89,18% giáo viên mong muốn là ưu đãi về tài chính (vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi dựa vào thâm niên công tác hoặc cam kết số năm công tác đối với giáo viên trẻ). Kế tiếp là việc giảm tuổi hưu (83,91%) và tăng thu nhập (83,57%) cũng như giảm các rào cản trong thăng hạng giáo viên (82,.96%). Điều này cho thấy sự cần thiết phải có chính sách đãi ngộ xứng đáng với những cống hiến và lòng tận tụy của giáo viên cũng như góp phần phát huy truyền thống tôn sư, trọng đạo trong bối cảnh mới.

Mong muốn cải thiện chính sách của giáo viên

Từ kết quả nghiên cứu thực tiễn, ĐHQG TPHCM mong muốn các cơ quan soạn thảo Luật Nhà giáo quan tâm, chú trọng các vấn đề sau:

Thứ nhất, chính sách tiền lương và phụ cấp đối với nhà giáo: lương cơ bản theo bảng lương nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp (như dự thảo Luật Nhà giáo đưa ra). Đây là quy định đột phá, góp phần gia tăng thu nhập cho nhà giáo, nhất là nhà giáo trẻ, nhà giáo hệ mầm non, yên tâm công tác và cống hiến cho giáo dục.

462552767_1223957378858632_1103565955060776094_n.jpg
Những kiến nghị, đề xuất về chính sách cho nhà giáo. Ảnh: THANH HÙNG

Thứ hai, cần tạo hành lang pháp lý vững chắc và toàn diện nhằm bảo vệ nhà giáo khỏi các áp lực; bảo vệ hình ảnh nhà giáo trong bối cảnh mới. Giảm tuổi nghỉ hưu với giáo viên mầm non; đồng thời kéo dài tuổi công tác cho các giáo viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư.

Thứ ba, về quy định dạy thêm - học thêm, cần xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, cơ chế công khai minh bạch trong việc dạy thêm; đảm bảo hài hòa với chính sách tiền lương giáo viên.

Thứ tư, xây dựng chính sách khen thưởng, đãi ngộ xứng đáng với những cống hiến của nhà giáo.

Cùng với đó, nhóm thực hiện dự án cũng đề xuất các chính sách khác cho nhà giáo như: kiến nghị Chính phủ xem xét ban hành chính sách về ưu đãi về tài chính (vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi dựa vào thâm niên công tác hoặc cam kết số năm công tác đối với giáo viên trẻ); xây dựng quỹ hỗ trợ tài chính quốc gia cho giáo viên trẻ, giáo viên các môn đặc biệt, giáo viên tài năng, giáo viên vùng đặc biệt.

Tin cùng chuyên mục