Trong lúc cai trị Indonesia (từ 1602), người Hà Lan đã cấm đá gà trên quần đảo này. Sau khi Indonesia hoàn toàn độc lập (1949), chính phủ nước này cũng tiếp tục cấm đá gà, ngoại trừ đảo Bali ở phía Nam quần đảo Indonesia.
Thời xưa, dân đảo chỉ chấp nhận giống gà thuần chủng Bali. Ngày nay, gà hai đảo Lombok và Java của Indonesia, thậm chí gà Philippines, Nhật, Mỹ vẫn được cho đá, miễn là gà khỏe mạnh và không mang điềm xui xẻo như “raja wilah” (các đốm đen trên cặp giò) hay “camah” (những bớt đỏ trên bắp thịt, lưỡi, da).
Dân đảo nuôi nhốt gà chọi trong “guwungan”, một loại giỏ bội đan bằng tre. “Guwungan” thường đặt ngoài sân để tập cho gà chọi quen với mọi thứ âm thanh, tiếng động của cuộc sống hàng ngày. Nhờ thế, khi đang lâm trận, gà không bị những tiếng động lạ làm cho sợ hãi bỏ chạy hoặc mất tập trung vào đối thủ. Thức ăn nuôi gà chọi gồm có: bắp trộn với bột ngũ cốc, một loại thịt gọi là “sadek”. Người nuôi còn cho gà ăn ớt để chúng hăng máu.
Tiếng Bali gọi trò đá gà là “tajen” hay “tajian”, xuất phát từ “taji”, tức là cựa thép, dài cả tấc, buộc vào chân gà bằng dây. Gắn cựa gà phải do các tay lành nghề. Cựa thép được mài bén ngọt một cạnh. Khi mài phải lựa đêm tối và không cho đàn bà bắt gặp (!). Đá gà và cá cược cũng chỉ có cánh đàn ông tham gia.
Đối với người Bali, đá gà là việc mang tính thiêng liêng, dù rằng nó thường kèm theo thói cá cược mang tính cờ bạc. Máu của con gà chiến bại đổ trên mặt đất được coi là lễ hiến tế cho thần thánh và ma quỷ. Vì thế việc đá gà được tổ chức theo cổ tục ghi chép trên một loại lá cọ tên là “lontar”, có lẽ giống như loại lá bối (bối diệp) dùng chép kinh ở Ấn Độ thời xưa. Việc phân loại gà chọi căn cứ theo màu lông cũng được chép trong một bản thảo “bối diệp” tên là “Pengayam-ayaman”.
Trước khi trận đấu bắt đầu, gà chọi phải đem vào đền thờ làm lễ “mecaru” để tẩy uế. Một thầy tu gọi là “pemangku” sẽ dâng lễ lên thần thánh. Cũng vì lý do phải đem gà vào đền làm lễ nên các trận đá gà hay tổ chức trên một khoảnh đất trống bên ngoài ngôi đền. Một trường đá gà như vậy thường diễn ra vào buổi chiều, kéo dài tới hoàng hôn. Trong khoảng ba hay bốn giờ thường có chín hay mười trận đấu. Nếu tổ chức đá gà để trừ tà ma thì tối thiểu phải đá ba trận.
Những người xem đá gà và những người tham gia cá cược ngồi thành vòng tròn bao quanh một khoảnh đất trống. Phụ nữ cũng có mặt nhưng chỉ để bán quà vặt của địa phương như nước uống pha si rô đủ màu, sa tế gà, món “lawar” gồm rau và thịt heo, thịt heo nướng… (Dân Indonesia theo đạo Hồi phải kiêng thịt heo nhưng dân đảo Bali theo đạo Bà la môn nên không kiêng thịt heo. Tiếng Bali gọi thịt heo là “babi”.)
Người canh giờ cho mỗi hiệp thường ngồi ở góc phải sân đá gà. Khi khởi đầu và kết thúc trận đấu ông ta gõ vào một thứ trống tên là “kulkul”. “Đồng hồ” của ông ta là một trái dừa trên vỏ đã đục một lỗ nhỏ. Khi thả trái dừa này vào xô nước, khoảng 21 giây sau thì lượng nước thấm vào đủ nặng để trái dừa chìm xuống. Trong 21 giây này cặp gà được thả tự do trong sân. Nếu chúng không xáp chiến, người chủ ôm gà mình ra vỗ về, khích lệ. Sau khi được thả vào sân lần nữa, nếu cặp gà vẫn không chịu đá, người ta bỏ luôn cả hai vào trong giỏ bội. Thường thì bấy giờ chúng mới chịu giao đấu trong chỗ tù túng.
Con gà bỏ chạy (tiếng Bali gọi là “jerih”) hay chết trong trận đấu là bại trận. Nếu cả hai con gà cùng lăn ra chết một lúc, chính trọng tài sẽ phán quyết bên thắng, bên thua. Tiếng Bali gọi những người chơi đá gà là “bebotoh”. Theo tục lệ, kẻ thắng sẽ đãi người thua. Nếu thắng cá cược, họ còn tặng lại kẻ đánh cá thua một ít tiền.
THANH MAI