Trả lời luật sư thẩm quyền phê duyệt chủ trương dự án, bị cáo Phạm Đình Trọng, cựu Vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp (Bộ TT-TT) cho hay, việc xin ý kiến của Bộ Kế hoach & Đầu tư và Bộ Tài chính cùng các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án nếu dựa theo Luật Đầu tư 67 năm 2014 thì phải có quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, còn theo Luật số 69 về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp thì không có quy định nào là phải cần phê duyệt chủ trương.
Trước câu hỏi của luật sư đề nghị cho biết ý kiến về việc 2 khoản đầu tư ngoài ngành mà MobiFone đề nghị thoái vốn trước khi đầu tư dự án, 2 khoản đầu tư này được tính 0 đồng, bị cáo Trọng khẳng định luật sư có thể đã nhầm lẫn bởi vẫn tính giá trị và không phải thoái vốn trước khi MobiFone thực hiện dự án mua cổ phần AVG.
Bị cáo Lê Nam Trà, cựu Chủ tịch HĐTV MobiFone cho biết, việc chuyển nhượng cổ phần từ AVG cho MobiFone bị cáo hoàn toàn không nắm rõ, chỉ sau này được tiếp cận hồ sơ mới biết. Bị cáo này cũng khẳng định chính Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son lúc bấy giờ là người “gợi ý” để MobiFone tiếp cận với AVG.
Còn việc bị cáo trực tiếp ký hợp đồng dự án là theo chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, nhưng trước đó theo thống nhất của HĐTV thì việc hợp đồng thực hiện giao cho bị cáo Cao Duy Hải: “Ký hợp đồng là bước cuối cùng nên tôi có triệu tập toàn bộ cán bộ để chứng kiến việc này”, bị cáo Trà cho hay.
Nói thêm về các cuộc họp bàn về giá mua và hiệu quả dự án, bị cáo Lê Nam Trà cho rằng, trong các cuộc họp đó đều có ông Trọng, ông Hải, tại đây bản thân ông Trà không đồng ý khi giao cho MobiFone quyết định về giá mua, bởi đó là vượt quá thẩm quyền MobiFone. Trong nhiều văn bản thì MobiFone cũng không đủ năng lực và khả năng quyết định về giá mua, sau đó cuộc họp giải tán và xin ý kiến Bộ trưởng để thực hiện”, bị cáo Trà trình bày và cho biết, để thực hiện dự án, MobiFone đưa ra 3 điều kiện thực hiện: Thứ nhất, vay vốn ưu đãi; thứ hai sử dụng thêm phần lợi nhuận của MobiFone; thứ ba cho phép sử dụng tần số 700Hz (theo ông Trà, tần số này có giá trị thương mại gần 1 tỷ USD). “Tôi chấp nhận tự nguyện khai báo mọi việc để vấn đề được sáng tỏ, để tôi được thanh thản”, bị cáo Trà bày tỏ.
Làm rõ thêm về “chủ trương” đưa giao dịch dự án vào diện “mật”, bị cáo Trương Minh Tuấn, cựu Bộ trưởng Bộ TT-TT cho hay, thời điểm ông về công tác tại bộ đã không nắm được danh mục tài liệu mật ở bộ, đến năm 2016 khi làm bộ trưởng ông đã cho rà soát lại và thấy bộ chưa có danh mục tài liệu mật nên sau đó có đề nghị Bộ Công an xem xét. “Việc đưa nội dung giao dịch “mật” là theo ý kiến chỉ đạo Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và giao cho Vụ Quản lý doanh nghiệp chuẩn bị công văn, tôi chỉ là người ký. Tôi chỉ đọc các văn bản theo bút phê của bộ trưởng, còn chuyển văn bản đó cho ai là thuộc quyền bộ trưởng”, ông Tuấn nói.
Trong khi đó, nhóm luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Thị Phương Anh tham gia xét hỏi bị cáo Lê Nam Trà rằng, thời điểm Bộ TT-TT có văn bản số 59 phê duyệt ký bản ghi nhớ danh mục “mật”, liệu có phải những người nằm trong dự án mới được tiếp cận? Bị cáo Trà nói, đây là dự án “mật”, trong quy chế quản lý “mật” mà MobiFone ban hành thì phải chấp hành. Lúc này bị cáo đề nghị luật sư đọc lại quy chế.