Các hãng phim quốc doanh thời cơ chế thị trường

Bài 2: Trước áp lực cạnh tranh của hãng phim tư nhân

Gần đây, “cơn lốc” thành lập hãng phim tư nhân đã ít nhiều ảnh hưởng tới hoạt động của các hãng phim quốc doanh. Để tồn tại, các hãng phim quốc doanh đã không còn có thể trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước mà phải tự cứu mình...
Bài 2: Trước áp lực cạnh tranh của hãng phim tư nhân

Gần đây, “cơn lốc” thành lập hãng phim tư nhân đã ít nhiều ảnh hưởng tới hoạt động của các hãng phim quốc doanh. Để tồn tại, các hãng phim quốc doanh đã không còn có thể trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước mà phải tự cứu mình...

  • Hãng phim Truyền hình TPHCM: Quảng cáo - sự thành công của bộ phim!
Bài 2: Trước áp lực cạnh tranh của hãng phim tư nhân ảnh 1

Phim “Người học trò đất Gia Định xưa” (Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu), bộ phim kinh phí 1tỷ 2 để kỷ niệm Sài Gòn 300 năm, nhưng đành bỏ kho vì không có đầu ra.

Chính thức được thành lập từ tháng 10-1991, Hãng phim Truyền hình TPHCM (TFS) mới đầu chỉ sản xuất những phim truyện ngắn, với số lượng phim cũng rất khiêm tốn (1 - 5 phim/năm). Hãng tập trung đầu tư làm phim tài liệu và cho đến tận bây giờ mảng phim này vẫn là thế mạnh của TFS.

Là đơn vị vẫn chịu sự hạch toán theo kiểu bao cấp, TFS không phải chịu áp lực về lời, lỗ cho một bộ phim. Đài Truyền hình TPHCM đưa chỉ tiêu, cấp kinh phí và hãng phim chỉ việc lên phương án thực hiện. Hiện nay, TFS phải đảm bảo có 100 giờ phát sóng phim truyện và 80 tập phim tài liệu. Với đội ngũ 9 đạo diễn phim truyện và 10 đạo diễn phim tài liệu (chưa kể đội ngũ đạo diễn cộng tác viên thường xuyên hơn chục người), hãng không mấy khó khăn trong việc triển khai thực hiện kế hoạch làm phim.

Có chăng là tìm kiếm kịch bản hay để thu hút quảng cáo. Nếu những năm trước, một phim ngắn có thời lượng 90 phút, phim nhiều tập khoảng 70 đến 75 phút/tập, thì nay phim dài tập phải dựng trong khoảng 30 phút/tập để còn sóng dành cho quảng cáo. Nguồn thu chính của truyền hình là quảng cáo, vì vậy sự thành công của một bộ phim được “đo” từ việc có nhiều hay ít của các đơn vị tham gia quảng cáo.

Không biết có phải quá chú trọng đến quảng cáo hay không nhưng không ít bộ phim khiến khán giả băn khoăn về chất lượng. Ngay bản thân nhiều đạo diễn cũng tâm sự, họ gặp nhiều khó khăn trong việc được phân công làm phim. Nhiều kịch bản quá dở, không phù hợp nhưng vì đã lỡ mua và nếu không nhận làm thì không có việc vì vậy họ buộc chấp nhận. Vì uy tín của bản thân, các đạo diễn phải ráng viết lại toàn bộ chỉ giữ lại cái sườn hoặc ý tưởng kịch bản…

Trong xu thế làm phim theo công nghệ mới, TFS mở rộng quan hệ hợp tác với các hãng phim nước ngoài. Công ty FNC (một hãng truyền thông của Hàn Quốc) đã đồng ý hợp tác và chuyển giao công nghệ làm phim truyện truyền hình cho TFS. Bộ phim đầu tiên có tên “Lẵng hoa tình yêu” dài 24 tập, đến đầu tháng 9-2004 sẽ chính thức bấm máy. Phim sẽ thực hiện đồng bộ từ thu tiếng trực tiếp đến đặt nhiều góc máy cho một cảnh quay. Cách làm này sẽ rút ngắn quy trình thực hiện một bộ phim. Cũng với mô hình này, TFS hợp tác với Tập đoàn Kantana (Thái Lan) vừa hoàn thành bộ phim dài 90 phút “Một chuyến phiêu lưu”. Trước đây, TFS cũng đã bán khá nhiều bộ phim ra nước ngoài dưới dạng DVD, video, phát sóng truyền hình, truyền hình cáp. TFS phát hành phim dưới dạng video gia đình cho cộng đồng người Việt tại Mỹ. Thương hiệu của TFS đang được gây dựng và củng cố.

  • Áp lực từ sự cạnh tranh của các hãng phim tư nhân

Trước đây khi Hãng phim Truyền hình thành lập, một số đạo diễn từ các hãng phim quốc doanh lục tục kéo về “đầu quân” với hy vọng có đất dụng võ. Ưu thế của truyền hình là có phim làm liên tục và các đạo diễn truyền hình cũng được thu nhập khá hơn. Tuy nhiên “vì cơ chế cứng ngắc, hãng phim không sao chi trả tiền cho anh em đoàn phim một cách hợp lý, hợp tình.

Một bộ phim được đánh giá tốt (hoặc chưa tốt), tiền nhuận bút trả bằng nhau, theo đúng khung nhà nước quy định. Muốn trả hơn cũng không được. Trong khi đó tư nhân linh động hơn. Họ mời đạo diễn và sẵn sàng trả tiền nhiều hơn miễn là làm việc hiệu quả” – ông Nguyễn Việt Hùng, Giám đốc Hãng phim TFS nói. Cho nên, không ít đạo diễn phim truyền hình cũng đã “nhảy” ra làm phim cho hãng phim tư nhân.

Một số đạo diễn của Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu cũng thế. Gần như các đạo diễn, quay phim song song với việc thực hiện nhiệm vụ làm phim (rất khiêm tốn) từ hãng, thời gian còn lại, họ tìm việc làm bên ngoài như làm phim quảng cáo cho các công ty, hoặc được mời làm đạo diễn, quay phim ở các hãng phim tư nhân. Tháo vát lắm như đạo diễn Xuân Phước, thì được Hãng phim Á Châu mời thực hiện bộ phim đầu tay của hãng là “Công nghệ lăng xê”, Trung tâm Văn hóa Phú Nhuận mời làm đạo diễn vở kịch “Mưa rừng”; đạo diễn Hồ Nhân cũng được Đài PT-TH Bình Dương mời làm phim truyện…

Nhưng chịu áp lực nhiều nhất vẫn là Hãng phim Giải Phóng. Trong vòng 2 năm trở lại đây, sau “Gái nhảy”, “Lọ Lem hè phố”, tình hình sản xuất phim của Hãng phim Giải Phóng bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc. “Gái nhảy” đạt doanh thu hơn 10 tỷ, “Lọ Lem” thu được hơn 5 tỷ đã giúp hãng trang bị một số trang thiết bị mới. Nhưng đến bộ phim thứ ba “U14 – Đội bóng trong mơ”, hãng lại tỏ ra lúng túng trong khâu quảng cáo, tiếp thị phim. Bộ phim tung ra không đúng thời điểm và đã phải chấp nhận thua trong phát hành.

Vấn đề tìm kịch bản phim ăn khách cũng không phải dễ. Tết này, Hãng phim Giải Phóng đang đứng trước sức ép cạnh tranh với các hãng phim tư nhân và nghe đâu kịch bản phim của hãng cũng không mấy hấp dẫn. Những gương mặt được xem là sáng giá của hãng cũng đã đi làm thuê cho các hãng tư nhân như: Lê Hoàng (đạo diễn phim “Nữ tướng cướp” cho Thiên Ngân), Phạm Hoàng Nam (đạo diễn phim “Khi người đàn ông có bầu” cho Phước Sang), Phạm Thùy Nhân (viết kịch bản phim “Bẫy tình” cho Việt phim)… khiến cho Lê Đức Tiến, Giám đốc Hãng phim Giải Phóng không khỏi nhức đầu.

Ông cũng đã nghĩ tới việc ra quy định mỗi đạo diễn 2 năm/phim để ràng buộc trách nhiệm. Nhưng xem ra cách làm này cũng không mấy khả quan nên đành hủy. Số đạo diễn có thể làm phim có khán giả không nhiều, nếu không muốn nói là vài ba người...

Sự cạnh tranh giữa hãng phim quốc doanh với các hãng phim tư nhân đã làm cho hoạt động điện ảnh sôi động hơn, khán giả có cơ hội thưởng thức nhiều phim hơn và các hãng cũng ý thức hơn trong việc làm những bộ phim hấp dẫn hơn để thu hút khách. Thế mạnh của các hãng phim quốc doanh đó là đội ngũ đạo diễn giỏi, quay phim có trình độ tay nghề cao… Nhưng điểm yếu của các hãng phim quốc doanh lại là bộ máy quá cồng kềnh, quỹ lương phải trả cho cán bộ công nhân viên rất lớn, trong khi đó lực lượng lao động dư thừa lại cao.

Ngược lại, hãng phim tư nhân có bộ máy gọn nhẹ, thậm chí chỉ cần một vài người điều hành, còn lại đạo diễn, quay phim có thể đi thuê những người giỏi. Thế độc quyền của các hãng phim quốc doanh đang có nguy cơ lung lay, thậm chí cơ hội để tiếp cận, làm ăn với nước ngoài cũng đang bị các hãng phim tư nhân nắm bắt, cạnh tranh. Và ưu thế độc quyền ấy đang có cơ sang tay cho các hãng phim tư nhân trong một tương lai rất gần…

Liệu rồi đây, các hãng phim quốc doanh phải phát huy nội lực như thế nào? Trong khi hãng phim Nguyễn Đình Chiểu với quyết tâm sản xuất được bộ phim truyện nhựa “Người học trò ở đất Gia Định xưa” (đầu tư gần 1,2 tỉ đồng), nhưng đành chịu bất lực ở đầu ra vì Fafilm không mua. Phim không có nơi chiếu, đành xếp vào kho. May ra, chỉ có Hãng phim Giải Phóng đã tự cứu mình bằng cách vượt qua quỹ đạo phim tài trợ tự bỏ vốn làm phim thị trường.

Một “Lọ Lem hè phố” ít nhiều tai tiếng và bị nhiều phê phán trên mặt báo cũng là một trong những cách mà một hãng phim quốc doanh như Hãng phim Giải Phóng đã làm để cân bằng sức ép thua lỗ của những phim nghệ thuật không có doanh thu ở các rạp chiếu bóng. Trước sức ép của thị trường, các hãng phim quốc doanh đang thực sự chống chọi với những cơn bão trên chiếc thuyền chòng chành nhỏ bé bởi nhiều cơ chế ràng buộc. Đã đến lúc họ phải tìm lối ra chứ không thể trông chờ vào những phim tài trợ như thời bao cấp nữa…
 

Nhóm PV VHVN

Tin cùng chuyên mục