(SGGPO). – Chiều 12-4 tại Hà Nội, Bộ GD-ĐT tổ chức họp báo công bố về dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể để lấy ý kiến nhân dân.
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT và GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình GDPT mới chủ trì buổi công bố.
Học đi đôi với hành. Trong ảnh: Lễ khai mạc cuộc thi Toán học – Tư duy và Thực tiễn hôm 1-4 tại Trường THPT Chuyên Trần Đại Nghĩa, TPHCM
Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, dự thảo đã được lấy ý kiến rộng rãi các cơ quan, chuyên gia trong nước và quốc tế, hội chuyên ngành trước khi công bố chính thức để lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân. Dự thảo cũng đã được Hội đồng quốc gia thẩm định Chương trình GDPT thẩm định lần thứ nhất. Chương trình GDPT mới bao gồm chương trình tổng thể (khung chương trình), các chương trình môn học và hoạt động giáo dục.
Về phương pháp xây dựng chương trình, GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết áp dụng phương pháp Sơ đồ ngược.
Thông thường, khi xây dựng chương trình GDPT theo định hướng tiếp cận nội dung, người ta xuất phát từ hệ thống kiến thức của môn học, chọn ra từ đó những kiến thức được cho là cần thiết đối với học sinh phổ thông để đưa vào chương trình. Nhưng với định hướng tiếp cận năng lực thì việc xây dựng chương trình phải xuất phát từ phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, trên cơ sở đó xác định nhu cầu phát triển đất nước, nhu cầu phát triển nhân lực, mục tiêu GDPT, rồi từ mục tiêu đó xác định những phẩm chất và năng lực cần hình thành, phát triển ở học sinh, tức là chuẩn đầu ra của chương trình. Từ chuẩn đầu ra mới xác định được những nội dung cần dạy, từ đó phân bổ thời lượng dạy học, xác định phương pháp giáo dục và phương pháp đánh giá kết quả giáo dục.
GS Nguyễn Minh Thuyết nhấn mạnh, việc đánh giá tác động diễn ra suốt trong quá trình xây dựng chương trình, sẽ bảo đảm tính khả thi của chương trình và rút ngắn được thời gian dạy thực nghiệm.
“Chân dung” người học sinh mới: 6 phẩm chất, 10 năng lực
Đi vào các nội dung chính của dự thảo chương trình tổng thể, GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết, yêu cầu của Quốc hội về phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học là sự tiếp nối truyền thống xây dựng con người toàn diện có đức có tài, vừa hồng vừa chuyên của Việt Nam. Phẩm chất là đức và năng lực là tài. Đức được đo bằng hành vi ứng xử; còn tài được đo bằng hiệu quả hành động. Đó là “chân dung” người học sinh mới.
Dự thảo chương trình nêu lên 6 phẩm chất chủ yếu cần hình thành, phát triển ở học sinh là: yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm.
Dự thảo cũng nêu lên 10 năng lực cốt lõi (những năng lực mà ai cũng cần có để sống và làm việc trong xã hội hiện đại), bao gồm những năng lực chung (được tất cả các môn học và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển) là năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; nững năng lực chuyên môn (được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học, hoạt động giáo dục nhất định) là năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mỹ, năng lực thể chất.
Tích hợp tiểu học và THCS, phân hóa và tự chọn ở THPT
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, theo chương trình hiện hành, học sinh vẫn phải học nhiều môn, vừa quá tải vừa không có điều kiện tập trung vào những môn phù hợp với định hướng nghề nghiệp. Còn theo chương trình mới, sẽ thực hiện giáo dục toàn diện, tích hợp ở các cấp tiểu học và THCS, thực hiện giáo dục phân hóa và tự chọn ở cấp THPT.
Cụ thể, hệ thống các môn học của chương trình GDPT được chia thành các môn học bắt buộc, môn học bắt buộc có phân hóa, môn học tự chọn và môn học tự chọn bắt buộc. Môn học bắt buộc là môn học mà mọi học sinh đều phải học. Môn học bắt buộc có phân hóa là môn học mà nội dung được thiết kế thành các chủ đề hoặc học phần (mô-đun), trong đó một số chủ đề hoặc học phần là bắt buộc đối với tất cả học sinh, một số chủ đề hoặc học phần được tự chọn tùy theo nguyện vọng của học sinh và điều kiện đáp ứng của cơ sở giáo dục.
Môn học tự chọn là môn học không bắt buộc, được học sinh tự nguyện lựa chọn, phù hợp với nguyện vọng, sở trường và định hướng nghề nghiệp của học sinh.
Môn học tự chọn bắt buộc là môn học mà học sinh bắt buộc phải lựa chọn trong số các môn học định hướng nghề nghiệp ở lớp 11, lớp 12 theo quy định của chương trình GDPT.
Theo đó, ở tiểu học, các môn học bắt buộc, gồm: Tiếng Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục lối sống, Cuộc sống quanh ta, Tìm hiểu xã hội, Tìm hiểu tự nhiên, Tìm hiểu công nghệ.
Các môn học bắt buộc có phân hóa, gồm: Thế giới công nghệ, Tìm hiểu tin học, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, ở cấp tiểu học còn có hoạt động Tự học có hướng dẫn (tự học trên lớp của học sinh tiểu học học 2 buổi/ngày, có sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên).
Ở THCS, các môn học bắt buộc, gồm: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý.
Các môn học bắt buộc có phân hóa: Tin học, Công nghệ và Hướng nghiệp, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Ở THPT, dự thảo chương trình mới xác định lớp 10 là lớp dự hướng nghề nghiệp.
Các môn học lớp 10, gồm các môn học bắt buộc: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục kinh tế và pháp luật, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Thiết kế và Công nghệ, Giáo dục quốc phòng và an ninh.
Các môn học bắt buộc có phân hóa: Tin học, Giáo dục thể chất, Hoạt động nghệ thuật, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Với lớp 11 và lớp 12, các môn học bắt buộc: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
Các môn học tự chọn bắt buộc, học sinh chọn 3 môn và 1 chuyên đề học tập trong số các môn Giáo dục kinh tế và pháp luật, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Khoa học máy tính, Tin học ứng dụng, Thiết kế và Công nghệ, Mỹ thuật, Âm nhạc, Chuyên đề học tập.
Các môn học tự chọn: Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 2.
3 hình thức đánh giá học sinh
Dự thảo cũng đổi mới phương pháp giáo dục, theo đó, các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường áp dụng các phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học. Giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề để khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy được để phát triển. Tùy theo mục tiêu cụ thể và mức độ phức tạp của hoạt động, học sinh được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Tuy nhiên, dù làm việc độc lập, theo nhóm hay theo đơn vị lớp, mỗi học sinh đều phải được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế.
Chương trình cũng nêu ra ba hình thức đánh giá: Đánh giá thường xuyên (do giáo viên phụ trách môn học tổ chức thực hiện, dựa trên kết quả đánh giá của giáo viên, của phụ huynh học sinh, của bản thân học sinh được đánh giá và của các học sinh khác trong tổ, trong lớp); Đánh giá định kỳ (do trường tổ chức thực hiện. Học sinh hoàn thành các môn học, tích lũy đủ kết quả đánh giá theo quy định của Bộ GD-ĐT được cấp bằng tốt nghiệp THPT); Đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương (do tổ chức kiểm định chất lượng cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh tổ chức).
Bộ GD-ĐT sẽ nghiên cứu, đề xuất lộ trình đổi mới đánh giá kết quả giáo dục và xét tốt nghiệp THPT khi cấp THPT triển khai chương trình mới.
PHAN THẢO