Chiều 11-10, UBTVQH cho ý kiến về các dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế.
Trong đó, đề xuất thành lập Khu thương mại tự do tại thành phố Hải Phòng nhận được sự quan tâm đặc biệt của UBTVQH. Đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách (TC-NS) Nguyễn Phú Cường nhận xét, “đề xuất của Chính phủ thể hiện sự quyết tâm, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của Chính phủ và thành phố Hải Phòng”.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Phú Cường nhấn mạnh, việc quy định hình thành Khu thương mại tự do là vấn đề quan trọng, không chỉ dưới góc độ kinh tế mà còn liên quan đến yếu tố quốc phòng, an ninh, hội nhập, ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Việc thành lập Khu thương mại tự do không chỉ dừng ở phạm vi của cơ chế, chính sách đặc thù riêng lẻ mà gắn với việc xây dựng các thể chế, thiết chế pháp luật có tác động lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng. “Thường trực Ủy ban TC-NS cho rằng, Chính phủ cần báo cáo Bộ Chính trị. Căn cứ ý kiến Bộ Chính trị, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định theo đúng thẩm quyền”, người đứng đầu Ủy ban TC-NS phát biểu.
Đồng quan điểm, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng chỉ ra rằng, những quy định về Khu thương mại tự do như dự thảo tờ trình sẽ được áp dụng các chính sách đặc biệt, đột phá, trong đó sẽ có các chính sách về đất đai, quy hoạch, tổ chức chính quyền, ưu đãi đầu tư, thuế… nhưng chưa làm rõ được nội hàm của các cơ chế này. Ông Hoàng Thanh Tùng lưu ý: “Tôi thống nhất về mặt chủ trương, nhưng cơ chế, chính sách áp dụng cho Khu thương mại tự do thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành”. Do đó, theo ông, việc cho phép Chính phủ quy định về các chính sách áp dụng cho Khu thương mại tự do và báo cáo UBTVQH trước khi thực hiện là chưa phù hợp về thẩm quyền.
Các ý kiến tại phiên họp cũng phân tích tính khả thi, thuyết phục của mô hình này, theo đó, một trong những yếu tố quan trọng để bảo đảm sự thành công của mô hình là nguồn lực thực hiện, trong đó có nguồn lực rất lớn phải đầu tư cho kết cấu hạ tầng, song Tờ trình chưa đánh giá và đề xuất phương án tài chính. Tờ trình mới đề cập đến một số điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, các khu công nghiệp nhưng những điều kiện về mô hình tổ chức, năng lực quản lý, chất lượng nguồn nhân lực chưa có báo cáo rõ ràng khi triển khai một mô hình mới. Do đó, đề nghị cần nghiên cứu thận trọng, kỹ lưỡng để bảo đảm tính thuyết phục, tạo sự đồng thuận cao.
Cơ bản nhất trí lập quỹ bảo tồn di sản Huế Tại phiên họp thứ 4 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng đã trình bày tờ trình của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế. Dự thảo Chính phủ trình có nội dung cho phép tỉnh Thừa Thiên Huế được thành lập Quỹ bảo tồn di sản Huế để bổ sung nguồn lực phục vụ công tác trùng tu, bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh. Quỹ được tiếp nhận từ nguồn ngân sách nhà nước của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hỗ trợ, nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và các nguồn thu hợp pháp khác. Quỹ bảo tồn di sản Huế là Quỹ quốc gia được Chính phủ cho phép thành lập và giao cho tỉnh Thừa Thiên Huế trực tiếp quản lý. Nêu lý do đề xuất thành lập Quỹ, Chính phủ cho biết, nhu cầu vốn đầu tư trùng tu quần thể di tích cố đô và các công trình di sản văn hóa Huế là rất lớn, khoảng 1.000 tỷ đồng/năm, nhưng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đã bố trí trong những năm qua không đáp ứng được nhu cầu. Theo Chính phủ, căn cứ nguồn tài chính và mục đích thành lập thì quỹ bảo tồn di sản Huế thuộc loại hình đặc thù kết hợp giữa quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và quỹ xã hội. Qua thẩm tra, Thường trực Ủy ban TCNS của Quốc hội cơ bản nhất trí với đề xuất thành lập quỹ bảo tồn di sản Huế, song đề nghị quy định rõ trong Nghị quyết 3 nội dung. Đó là quỹ bảo tồn di sản Huế chỉ dùng để đầu tư thực hiện công tác trùng tu, bảo tồn, phát triển giá trị di sản Huế; Chỉ đầu tư cho các công trình, hạng mục chưa được NSNN đầu tư hoặc đầu tư chưa đủ và giao Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết việc quản lý, sử dụng Quỹ này. |