Các ý kiến tại hội thảo nêu rõ, nguồn lực đất đai nói chung, đất NLN nói riêng hiện nay chưa thực sự phát huy hiệu quả. Tình trạng sử dụng quỹ đất của Nhà nước để cho thuê, cho mượn, khoán trắng; tình trạng lợi dụng ranh giới giữa rừng sản xuất với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ không rõ ràng để khai thác rừng không đúng pháp luật còn thường xuyên xảy ra.
Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do hồ sơ quản lý đất đai trước đây được lập còn quá sơ sài (chủ yếu là sử dụng hồ sơ dạng giấy, tài liệu đo đạc lạc hậu, biến động đất đai không cập nhật đầy đủ; nhất là trong giai đoạn vừa qua việc chuyển nhượng đã diễn ra khá phổ biến; không kiểm soát được việc lấn, chiếm đất đai, tranh chấp xảy ra khá phổ biến nhưng cơ sở hồ sơ để làm căn cứ giải quyết không đảm bảo). Tình trạng sử dụng đất không đúng đối tượng, không đúng mục đích vẫn còn xảy ra khá phổ biến, hiệu quả sử dụng đất không cao, gây lãng phí nguồn tài nguyên; còn tình trạng hợp thức hóa cho các vi phạm đã xảy ra, gây ra sự không ổn định tình hình chính trị - xã hội tại địa phương… Nhiều nơi đã lợi dụng chủ trương trồng rừng đã phá rừng đặc dụng, rừng phòng hộ để tạo quỹ đất cho trồng rừng sản xuất, nhiều diện tích rừng bị chặt phá làm cho đất rừng nghèo kiệt; đất rừng ngày càng bị thu hẹp, bị lấn chiếm.
Thêm vào đó, trong một thời gian dài, công tác quản lý nhân khẩu bị buông lỏng, thiếu kiểm soát đã để tình trạng người dân di cư tự do từ các địa phương về Tây Nguyên với số lượng rất lớn phá rừng để lấy đất sản xuất.
“Vấn đề đặt ra đối với các hộ di dân tự do là làm thế nào để công nhận hộ khẩu và giải quyết đất đai”, ông Triệu Văn Bình, Vụ Dân tộc, Văn phòng Quốc hội, nhấn mạnh. |
Về giải pháp, chấn chỉnh hoạt động của các công ty NLN được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu, với mục tiêu đến 2025 có 100% công ty NLN được xử lý dứt điểm tồn tại về tài chính, đất đai, kinh doanh có lãi, đạt tiêu chí phổ biến về quản trị doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế.
Hướng tới mục tiêu này, theo ông Phạm Văn Hạnh, Tổng cục Lâm nghiệp, cần hoàn thiện quy định của pháp luật về mô hình công ty TNHH 2 thành viên trở lên, cụ thể là quy định tỷ lệ vốn điều lệ Nhà nước nắm giữ tại công ty cổ phần quản lý nhiều đất đai; quy định về sáp nhập, hợp nhất một số công ty trên cùng địa bàn, cùng chủ sở hữu; quy định về kinh phí hỗ trợ giải quyết các tồn tại tài chính đối với công ty giải thể; hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho công tác đo đạc, cắm mốc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…
Bước tiếp theo, sau khi xử lý, sắp xếp các công ty NNL là phải có cơ chế, chính sách phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty này.
Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung các quy định đặc thù về tài chính, thuế sử dụng đất; đề xuất cơ chế giao vốn, tài sản trên đất về địa phương; quy định cơ chế đặt hàng nhiệm vụ công ích; đồng thời hoàn thiện cơ chế thúc đẩy phát triển dịch vụ môi trường rừng.
Đáng lưu ý, theo ông Hạnh, các quy định này cần căn cứ vào đặc thù của rừng khi thiết lập khung khổ kinh doanh dưới tán rừng; cơ chế tín dụng cũng cần phù hợp với chu kỳ cây trồng dài ngày…