Như vậy, dự kiến các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2024 đều nằm trong dưới trần và ngưỡng cảnh báo an toàn đã được Quốc hội quyết định.
Về cơ cấu, nợ trong nước chiếm khoảng 76% dư nợ Chính phủ, trong đó chủ yếu là trái phiếu Chính phủ. Còn nợ nước ngoài ước chiếm khoảng 24% dư nợ Chính phủ, chủ nợ chủ yếu là các đối tác phát triển song phương và đa phương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á. Nợ nước ngoài chủ yếu là các khoản vay ODA, vay ưu đãi đã ký dài hạn, lãi suất ưu đãi.
Việc trả nợ của Chính phủ năm 2024 được thực hiện đầy đủ theo cam kết, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Với năm 2025, dự báo đến cuối năm dư nợ công ở mức khoảng 36%-37%GDP, nợ Chính phủ ở mức 34%-35%, nợ nước ngoài 33%-34%, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách khoảng 24%...
Dự kiến tổng nhu cầu vay của Chính phủ năm 2025 ở mức 815.238 tỷ đồng, tăng 20,6% so với kế hoạch vay của Chính phủ năm 2024. Trong đó, vay của ngân sách Trung ương cho bù đắp bội chi và trả nợ gốc là 804.242 tỷ đồng, tăng 21,9% so với dự toán năm 2024, còn lại là vay nước ngoài về cho vay lại. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ được dự kiến khoảng 468.542 tỷ đồng, trong đó trả nợ gốc khoảng 361.142 tỷ đồng, trả nợ lãi khoảng 107.400 tỷ đồng.
Đánh giá tình hình, Chính phủ cũng nhìn nhận một số hạn chế như: chi phí vay nước ngoài hiện đang cao hơn so với chi phí vay bình quân trong nước và tiềm ẩn rủi ro về biến động tỷ giá giữa đồng ngoại tệ/nội tệ; giải ngân đầu tư công vốn nước ngoài đạt thấp, ước giải ngân vốn đầu tư công 9 tháng đầu năm 2024 của cả nước đạt 47,29% kế hoạch, trong đó giải ngân vốn nước ngoài đạt 24,33% kế hoạch.
Những hạn chế trên có nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, các vướng mắc liên quan đến đầu tư công, đấu thầu vẫn chưa được xử lý triệt để, trong khi phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật trong nước đối với các thỏa thuận vay.