Có thể hiểu, biểu tình là hình thức tụ tập đông người để bày tỏ ý chí nguyện vọng và biểu dương lực lượng tập thể về một vấn đề chung của xã hội.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi nhận biểu tình là quyền cơ bản của công dân: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Thực tế hiện nay quyền được biểu tình mới chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp mà chưa được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật cụ thể. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội, pháp luật Việt Nam cũng đã có những văn bản pháp quy điều chỉnh hành vi “tập trung đông người tại nơi công cộng”, cụ thể là Nghị định 38/2005 quy định một số biện pháp đảm bảo trật tự công cộng và Thông tư 09/2005 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định 38/2005.
Ùn tắc giao thông tại khu vực Lăng Cha Cả (quận Tân Bình, TPHCM) do cuộc tụ tập đông người vào sáng 10-6. Ảnh: GIA MINH
Theo đó, hoạt động tập trung đông người ở nơi công cộng là những trường hợp tổ chức tập trung từ 5 người trở lên tại các khu vực, địa điểm phục vụ chung cho mọi người (vỉa hè, lòng đường, quảng trường, cơ sở kinh tế, văn hóa…) nhằm mục đích đưa ra yêu cầu hoặc kiến nghị về những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, gia đình, tổ chức, hoặc nhằm đưa ra những yêu cầu, kiến nghị về những vấn đề có liên quan chung đến đời sống chính trị - xã hội, đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
Mọi hoạt động tập trung đông người đều phải đăng ký trước với UBND cấp huyện hoặc UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật và phải thực hiện đúng nội dung đã đăng ký. Trình tự thủ tục đăng ký tập trung đông người được quy định cụ thể tại Điều 6 Thông tư 09/2005.
Trường hợp không tuân thủ các quy định của pháp luật nêu trên, sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm. Cụ thể như sau:
- Xử lý vi phạm hành chính: Căn cứ Nghị định 167/2013 (quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội, phòng cháy và chữa cháy, phòng chống bạo lực gia đình), hành vi vi phạm trật tự công cộng sẽ bị phạt tiền.
Mức phạt thấp nhất là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền 100.000 - 300.000 đồng đối với hành vi gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ…
Mức phạt cao nhất là phạt tiền 3 - 5 triệu đồng đối với hành vi gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ.
- Truy cứu trách nhiệm hình sự: Người nào gây rối trật tự công cộng ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm sẽ bị phạt 5 - 50 triệu đồng; phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm, hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Trường hợp phạm tội có tổ chức; dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách; gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; xúi giục người khác gây rối; hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng…, có thể bị phạt tù 2 - 7 năm.
Ngoài ra, còn có thể bị xử lý hình sự về tội chống người thi hành công vụ (Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015), với mức phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm; tội bạo loạn (Điều 112 Bộ luật Hình sự năm 2015), với khung hình phạt tù 12 - 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình đối với người tổ chức, người thực hiện đắc lực gây hậu quả nghiêm trọng; tội phá rối an ninh (Điều 118 Bộ luật Hình sự năm 2015), với hình phạt tù mức cao nhất là 15 năm.