Ngày 9-9, hội nghị thẩm tra sơ bộ đề án “Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2045” được Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức tại Nhà Quốc hội.
Trình bày Tờ trình của Chính phủ về Đề án, Thứ trưởng Bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết, nguồn nước mặt sản sinh trong lãnh thổ Việt Nam chỉ chiếm 37% tổng lượng nước mặt của quốc gia, sản sinh từ bên ngoài lãnh thổ chiếm tới 63%. Đến nay vẫn chưa có cơ chế, chính sách, biện pháp hiệu quả để hợp tác, chia sẻ nguồn nước giữa các quốc gia có chung nguồn nước.
Trong khi đó, công trình khai thác nguồn nước được xây dựng từ lâu đã xuống cấp, khó thay đổi công năng đáp ứng cho sản xuất quy mô lớn. Tỷ lệ thất thoát nước cho cấp nước đô thị và nông thôn còn ở mức cao (khoảng 25%).
Hiện cả nước có 7.808 đập, hồ chứa nước với tổng dung tích khoảng 70,5 tỷ m3; nhưng công tác bảo trì chưa được quan tâm thường xuyên nên công trình bị hư hỏng, xuống cấp, suy giảm công năng phục vụ và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.
Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT, trước thực trạng trên, việc xây dựng Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước nhằm đưa ra định hướng chiến lược, giải pháp căn cơ trước mắt và lâu dài là hết sức cần thiết và cấp bách.
Tại phiên họp, các đại biểu nhất trí cao với sự cần thiết xây dựng Đề án; đồng thời, nhấn mạnh an ninh nguồn nước là vấn đề mang tính toàn cầu, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu nước, chỉ số an ninh nước quốc gia của Việt Nam ở mức thấp trong khu vực, nguy cơ mất an toàn đập, hồ chứa nước cao. Do đó, đây không chỉ là vấn đề cấp bách mà còn mang tính dài hạn, tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc gia.
Một số ý kiến cho rằng ban hành Đề án là thẩm quyền của Chính phủ, còn Quốc hội sẽ nghe báo cáo và cho ý kiến về việc xây dựng Đề án của Chính phủ theo quy định của Nghị quyết số 124/2020/QH14 của Quốc hội.
Các đại biểu dự hội nghị đề nghị đề án phải đảm bảo 4 nguyên tắc then chốt.
Một là, đáp ứng nhu cầu nước cho sinh hoạt, sản xuất, các ngành kinh tế thiết yếu.
Hai là, công bằng trong tiếp cận nguồn nước, mọi người dân, mọi đối tượng sử dụng nước được tiếp cận và sử dụng nguồn nước trong sinh hoạt, sản xuất với chi phí hợp lý.
Ba là, bảo vệ chất lượng nguồn nước, hệ sinh thái, bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy.
Bốn là, giảm thiểu rủi ro, thiệt hại từ các thảm họa, thiên tai liên quan đến nước, đặc biệt đối với khu vực dân cư nghèo, vùng sâu, vùng xa.
Đồng thời làm rõ nội dung bảo đảm an ninh nước quốc gia phải tuân theo quy luật tự nhiên, lấy tài nguyên nước làm cốt lõi để xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch các ngành lĩnh vực có khai thác sử dụng nước.