Chúng tôi có cuộc trao đổi với TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn, cùng chuyên gia nông sản Nguyễn Đình Bích để có cái nhìn khách quan hơn.
PHÓNG VIÊN: Thưa ông, Nghị định 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý kinh doanh, xuất khẩu gạo đã giúp cởi trói cho hạt gạo, tạo điều kiện để doanh nghiệp xuất khẩu gạo theo cơ chế và tín hiệu thị trường, nhưng vì sao hiện nay lại xảy ra những chuyện lình xình như vậy?
TS ĐẶNG KIM SƠN: Thực tế, từ năm 2000, hạt gạo đã được “cởi trói” với nhiều chính sách, cơ chế rất thông thoáng trong xuất khẩu và sản lượng gạo xuất khẩu vẫn ổn định, tăng đều theo từng năm từ đó đến nay. Nếu đứng về mặt cung - cầu thì với một đất nước có sản lượng gạo dồi dào như Việt Nam, xuất khẩu được càng nhiều càng tốt, nhất là trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19, nhiều nông sản khác bị “đóng băng”, nhưng thị trường gạo vẫn vô cùng sôi động. Tuy nhiên, dịch Covid-19 đã khiến các nước đều có xu hướng tích trữ lương thực thì việc Chính phủ đặt ra vấn đề kiểm soát xuất khẩu là vô cùng cần thiết, do những lo ngại về an ninh lương thực. Song, sự thay đổi quá đột ngột trong điều hành xuất khẩu gạo của các bộ, ngành vừa qua đã tạo ra cơn sóng trong ngành lúa gạo.
Vậy theo ông, phải làm thế nào để xóa bỏ tình trạng mập mờ, trống đánh xuôi kèn thổi ngược trong điều hành xuất khẩu gạo hiện nay?
Theo tôi, tốt nhất là không xin - cho, hãy để hạt gạo tự vận hành theo cơ chế thị trường. Từ năm 2000, chúng ta đã bỏ hạn ngạch, đã cho phép doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào xuất khẩu gạo chứ không chỉ là sân chơi của doanh nghiệp nhà nước. Càng ngày chúng ta xuất khẩu càng mạnh và Việt Nam là một thị trường có uy tín trên thế giới.
Chúng ta phải tạo ra một hệ thống quản lý mà ở đó mọi người đều có quyền giám sát, có quyền có ý kiến. Trong chuỗi lúa gạo có nông dân, có doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ; có doanh nghiệp nhà nước, có doanh nghiệp tư nhân. Tất cả đại diện doanh nghiệp, đại diện các bộ, đại diện địa phương và đại diện nông dân phải được biết tình hình ngừng như thế nào, khối lượng xuất khẩu bao nhiêu, phân bổ cho ai, mở cửa vào thời gian nào chứ không phải là quyền quyết định của một bộ ngành; càng không phải quyền quyết định của một cục, vụ hoặc một số cán bộ.
Cần ưu tiên doanh nghiệp có sẵn gạo tại cảng, có hợp đồng xuất khẩu
Thưa ông, ở các nước như Thái Lan thì hiện nay họ đang làm như thế nào mà không xảy ra tình trạng như ở nước ta?
Chuyên gia NGUYỄN ĐÌNH BÍCH: Hiện nay, Thái Lan để xuất khẩu gạo tự do chứ không áp dụng hạn ngạch như mình. Vì vậy, doanh nghiệp xuất theo nhu cầu của thị trường thế giới.
Vậy nguyên nhân chính là do chúng ta áp dụng cơ chế hạn ngạch thay vì xuất khẩu tự do như trước, đúng không?
Trong công văn truyền đạt chỉ đạo của Thủ tướng tới các bộ, ngành, theo tôi hiểu thì chỉ lệnh tạm dừng ký các hợp đồng mới, còn những hợp đồng đã ký kết trước thời điểm tạm dừng thì vẫn phải được xem xét, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được thông quan. Nhưng khi mở hạn ngạch 400.000 tấn, các bộ, ngành lại không xem xét các trường hợp này (những doanh nghiệp đã có sẵn gạo tại cảng, đã có hợp đồng xuất khẩu, lẽ ra phải được ưu tiên xem xét thủ tục để đi trước) mà lại cho mở tờ khai hải quan cho những doanh nghiệp chưa có gạo, doanh nghiệp mới, nên dẫn tới chuyện lùng bùng, vô lý như hiện nay. Như thế là làm trái với ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng. Tôi cho rằng, trong hạn ngạch tháng 4 (hoặc tháng 5) mà còn thừa thì mới xem xét tiếp các trường hợp đăng ký mới. Nếu làm như thế sẽ không có chuyện lùm xùm như bây giờ.
Theo ông, sắp tới có nên hoặc cần áp dụng hạn ngạch nữa không, hay nên nới lỏng hạn ngạch?
Theo tôi, nếu việc xuất khẩu mà có nguy cơ mất an ninh lương thực trong nước thì phải áp dụng hạn ngạch, còn không thì phải để tự do như Nghị định 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, chúng ta phải đặt câu hỏi là nguy cơ mất an ninh lương thực trong nước có xuất hiện hay không? Theo tôi, chúng ta đang có tới 3 triệu tấn gạo đông xuân ở ĐBSCL để xuất khẩu. Nếu mỗi tháng xuất khoảng 700.000 tấn thì có thể xuất từ tháng 1 đến tháng 4, cộng thêm khoảng 1,6-1,7 triệu tấn mà các doanh nghiệp dự trữ trong kho gối từ năm 2019. Vì vậy, chúng ta vẫn có thể xuất khẩu bình thường như mọi năm, không sợ mất an ninh lương thực quốc gia, vì từ tháng 5 lại bắt đầu có lúa hè thu. Thêm nữa, theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, năm nay, nhu cầu nhập khẩu gạo của thế giới chỉ có 41 triệu tấn chứ đâu nhiều, vì dịch bệnh xuất hiện, kinh tế suy thoái, người dân mất việc làm, thu nhập giảm thì nhu cầu tiêu dùng gạo sẽ giảm chứ không thể tăng.
Trong trường hợp vẫn áp dụng hạn ngạch thì chỉ nên quy định với gạo tẻ, còn với gạo thơm, gạo nếp thì không nên tính vào hạn ngạch vì nhu cầu tiêu dùng trong nước không nhiều. Nếu cho loại này xuất khẩu tự do thì đã “thông thoáng” hẳn cho ĐBSCL rồi.
ĐBSCL: Giá lúa giảm nhẹ bởi doanh nghiệp hạn chế mua vào Chiều 20-4, ông Nguyễn Văn Đời, Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Bình Thành (huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), cho biết: “Mấy ngày qua, giá lúa hàng hóa ở ĐBSCL có xu hướng giảm nhẹ. Hiện lúa dài dao động khoảng 6.200-6.400 đồng/kg, lúa thường khoảng 5.200 đồng/kg…, bình quân giảm 200-500 đồng/kg so với thời điểm trước đây khoảng một tháng, khi chưa tạm ngừng xuất khẩu gạo”. Về cơ bản, nhiều địa phương ở ĐBSCL thu hoạch xong vụ lúa đông xuân 2019-2020, với sản lượng gần 10,8 triệu tấn. Hiện các tỉnh đang tập trung sản xuất hơn 1,5 triệu ha lúa hè thu. HUỲNH LỢI |
Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa gửi báo cáo đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nêu quan điểm về xuất khẩu gạo và đảm bảo an ninh lương thực.
Trong đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã kiến nghị một số giải pháp. Thứ nhất là trên cơ sở phân tích, đánh giá, dự báo sản lượng gạo năm 2020, nhất là 2 vụ sản xuất lúa chính đông xuân và hè thu, tính toán lượng gạo dự trữ quốc gia. Thứ hai là theo dõi sát diễn biến dịch Covid-19; tình hình cung - cầu gạo của các nước trên thế giới, nhất là các nước có lượng gạo xuất khẩu lớn, từ đó, đánh giá, phân tích để có giải pháp điều hành xuất khẩu gạo năm 2020, tránh tình trạng bị động, manh mún, giật cục, gây thiệt hại cho nông dân và doanh nghiệp. Thứ ba là cho phép xuất khẩu trở lại ngay mặt hàng gạo nếp và các mặt hàng gạo hữu cơ, ít tiêu thụ trong nước và không thuộc danh mục dự trữ quốc gia.
Thường trực Ủy ban Kinh tế cũng kiến nghị xem xét, xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan trong thực thi công vụ, tham mưu các quyết định có ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp và người dân nhưng đã không đánh giá kỹ tác động; nghiên cứu giải pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị nhiều thiệt hại trong giai đoạn vừa qua. Trong đó, cần làm rõ việc Tổng cục Hải quan mở hệ thống thông quan hàng hóa tự động để doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo đăng ký tờ khai vào lúc 0 giờ ngày 12-4 có dấu hiệu tiêu cực, lợi ích nhóm hay không?
Thường trực Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị khẩn trương có biện pháp cho thông quan ngay đối với các lô hàng gạo xuất khẩu của các doanh nghiệp đã được kê khai và đang nằm tại cảng trước ngày 24-3, góp phần khắc phục thiệt hại cho doanh nghiệp. Sau khi giải quyết hết số lượng gạo tồn đọng này mà vẫn còn chỉ tiêu xuất khẩu thì mới mở tờ khai tiếp để không gây thiệt hại cho doanh nghiệp. (ANH THƯ)
Ngày 21-4, Văn phòng Bộ Công thương cho biết, bộ vừa có Công văn số 2806 gửi Thủ tướng Chính phủ để giải trình về các nội dung mà Bộ Tài chính nêu ra có liên quan tới công tác điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua.
Theo Bộ Tài chính, phương thức điều hành “đăng ký tờ khai trước được xuất trước” (FCFS) mà Bộ Công thương đưa ra áp dụng là bất cập và đề nghị thay thế bằng đấu thầu hạn ngạch hay phân bổ hạn ngạch. Nhưng ý kiến này của Bộ Tài chính đã không được Bộ Công thương tiếp thu.
Tuy nhiên, Bộ Công thương lại cho rằng, trong cả 2 lần góp ý cho báo cáo của Bộ Công thương gửi Thủ tướng, Bộ Tài chính đều không có ý kiến về các “bất cập” của phương thức FCFS trong điều hành hạn ngạch. Ý kiến này của Bộ Tài chính chỉ xuất hiện lần đầu tiên vào ngày 10-4, khi phương thức FCFS đã được đề xuất công khai trước đó 13 ngày và Thủ tướng Chính phủ, sau khi cân nhắc tất cả các ý kiến tham gia, đã có văn bản chỉ đạo về phương thức điều hành xuất khẩu gạo. Thêm nữa, trước khi đề xuất phương thức FCFS, Bộ Công thương cũng không nhận được ý kiến nào khác của cả Tổng cục Hải quan và Bộ Tài chính.
Theo Bộ Công thương, để bảo đảm tuyệt đối an ninh lương thực, phương án điều hành hạn ngạch mà Bộ Công thương đề xuất là tương đối công bằng, có tính công khai, minh bạch, dễ thực hiện, dễ giám sát, khó phát sinh các rủi ro về đạo đức cũng như tham nhũng, lợi ích nhóm... nên sau đó được Thủ tướng chấp nhận. Phương thức FCFS, nếu phối hợp tốt và bổ sung thêm một số giải pháp kỹ thuật (như bắt buộc phải khai báo đồng thời tên tàu, số hiệu container trên tờ khai online và không cho phép sửa đổi các thông tin này) sẽ giúp giảm đáng kể tình trạng khai giữ chỗ. Các doanh nghiệp đã có hàng tại cảng chắc chắn sẽ ở vị thế ưu tiên số 1, bởi họ đều đã rõ tên tàu, số hiệu container và chỉ có họ mới có thể hiện thực hóa tờ khai mà không cần phải thay đổi các thông tin này. Bộ Công thương cho rằng, FCFS là phương thức được nhiều nước và tổ chức quốc tế khuyến nghị áp dụng nếu buộc phải áp dụng hạn ngạch. Trong suốt 2 tuần sau khi công bố, Bộ Công thương không nhận được ý kiến trái chiều nào về phương thức này.
Cũng theo Bộ Công thương, đấu thầu hạn ngạch cần có thời gian để tổ chức và sẽ mất ít nhất 15 - 20 ngày để xây dựng quy chế, làm hồ sơ và thực hiện các thủ tục thẩm định hồ sơ, tổ chức đấu thầu theo quy định.
Thêm nữa, đấu thầu hạn ngạch sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tài chính, trúng toàn bộ hạn ngạch, tước đi cơ hội của các doanh nghiệp nhỏ. Không loại trừ khả năng xuất hiện tình trạng bán lại hạn ngạch trúng thầu cho các doanh nghiệp nhỏ thông qua các hợp đồng “nhận ủy thác” để ăn chênh lệch như đã từng xảy ra trước đây. (PHÚC HẬU)