Phát biểu tại tọa đàm, GS Hoàng Văn Cường, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, cho rằng, Nghị định số 24/`2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng ra đời năm 2012. Thời điểm đó, vàng đang được coi như một phương tiện thanh toán, gần như là tiêu dùng vàng thay cho tiền, đó là thời kỳ "vàng hóa nền kinh tế". Nếu cứ để tình trạng đó tiếp diễn thì sẽ gây rất nhiều hệ lụy, nhất là không thể quản lý được vấn đề xuất nhập khẩu và ngoại hối, từ đó không thể quản lý được vấn đề tỷ giá, làm mất giá trị đồng tiền. Trong bối cảnh đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP nhằm hạn chế tình trạng "vàng hóa", giúp chấn chỉnh tình trạng dùng vàng làm công cụ giao dịch.
Tuy nhiên, theo GS Cường, đến nay tình hình đã thay đổi rất nhiều. Việc chúng ta vẫn đang duy trì Nghị định số 24/2012/NĐ-CP trong đó có quy định “Nhà nước là cơ quan độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền trong quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng” đã khiến nảy sinh nhiều bất hợp lý. Thực tế những năm qua, hầu như Nhà nước lấy một thương hiệu vàng SJC là thương hiệu vàng quốc gia.
“Vàng ngoài độc quyền thì lẽ ra vẫn phải sản xuất, phải cung ra, nhưng trên thực tế thì hầu như không có chuyện sản xuất thêm vàng miếng. Trong khi tâm lý của người dân là tích trữ vàng để phòng rủi ro, do đó đương nhiên dân chọn vàng SJC- thương hiệu quốc gia để tích lũy. Cung không có mà cầu có thì sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu và giá vàng sẽ tăng”, GS Cường phân tích.
Cũng theo GS Cường, chúng ta không có chuyện liên thông xuất nhập khẩu vàng, không cân bằng được giữa thị trường vàng trong nước và thế giới, dẫn đến tình trạng giá vàng thế giới chỉ tăng một chút thì trong nước tăng rất cao. Có những thời kỳ tăng đến 20 triệu một lượng, điều này là rất phi lý, người dân bị thiệt hại, phải mua vàng với một cái giá rất cao. Mặt khác, có sự không bình đẳng giữa những loại vàng miếng như nhau, có thể chất lượng cùng là vàng 9999 nhưng vàng tên SJC do Nhà nước bảo hộ thì giá rất cao.
Từ phân tích trên, GS Cường cho rằng, trong tình hình hiện nay, rất cần có sự thay đổi về phương thức quản lý vàng, phải sửa đổi quy định Nghị định số 24/2012/NĐ-CP. Không nhất thiết phải độc quyền nhà nước về một thương hiệu vàng, thay vào đó có thể cho nhiều doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất vàng miếng để đáp ứng nhu cầu của người dân. Khi cung được tự do, được cạnh tranh bình đẳng thì người dân tiếp cận vàng tích lũy sẽ dễ hơn, sẽ không còn tình trạng khan hiếm khiến giá vàng bị đẩy lên.
GS Hoàng Văn Cường cũng đề nghị liên thông thị trường vàng trong nước với quốc tế, xem xét vấn đề xuất nhập khẩu vàng với phương thức quản lý phù hợp. Không nên duy trì cơ chế như trước đây là cấp phép, cấp quota theo dạng “xin - cho” mà có thể sử dụng các công cụ tài chính để điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu, tránh tình trạng ồ ạt dùng ngoại tệ nhập vàng vào với mục đích khác, làm mất cân đối ngoại tệ, mất khả năng điều hành tỷ giá.
GS Cường cũng đề nghị xem xét việc mở sàn kinh doanh vàng thông qua hợp đồng kinh doanh, thông qua các tín chỉ về vàng. Như vậy, sẽ điều hành rất linh hoạt và đặc biệt không còn tình trạng người dân mua vàng về để trong nhà tích trữ, "chết" một khối lượng tiền ở đấy. Khi giao dịch vàng trên tài khoản thì người dân không nhất thiết phải mang vàng về nhà, không phải mất công cất trữ, vàng đó được lưu thông trên thị trường, sẽ sinh lợi, tạo nguồn vốn đưa vào lưu thông, mang lại nhiều tác động tốt cho nền kinh tế cũng như đảm bảo lợi ích của mỗi người dân.
Cùng quan điểm, ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng cho rằng, các nước trên thế giới, kể cả các nền kinh tế lớn, các ngân hàng trung ương không quản lý trực tiếp về kinh doanh vàng.
“Với người dân, vàng là phương tiện để tích trữ, phòng ngừa rủi ro. Nhưng thực tế là đồng tiền Việt Nam những năm qua rất ổn định, do đó người dân không dùng vàng để làm phương tiện thanh toán và không có khái niệm "vàng hóa". Do đó, cần thay đổi cách quản lý. Khi vàng đã không còn là hàng hóa thì ngân hàng Trung ương không cần quản lý trực tiếp thị trường vàng nữa”, ông Hùng nêu.
Chuyên gia kinh tế Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo, Trường Đại học Kinh tế quốc dân cũng phân tích, trong, trước và sau Nghị định 24, ở Việt Nam có hai loại chênh lệch giá vàng. Trước hết là chênh lệch giữa giá vàng nguyên liệu 24K (tức là vàng 9999) với giá vàng thế giới và chênh lệch giữa giá vàng SJC so với giá vàng 9999. Số liệu thống kê cho thấy, giá vàng nguyên liệu 24K của Việt Nam và thế giới không có chênh lệch nhiều; nhưng chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC là quá cao, giá vàng SJC hiện nay "một mình một chợ". Lúc giá vàng SJC lên đỉnh điểm 80 triệu thì mức chênh lệch khoảng 20 triệu đồng/lượng so với giá vàng thế giới. Đây là một điều rất bất hợp lý.
Theo ông Trần Thọ Đạt, điều hành phải theo cơ chế thị trường, làm cho cung - cầu gần nhau theo hướng không chênh lệch giữa giá vàng thế giới so với giá vàng trong nước. Nếu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phải độc quyền vàng miếng SJC thì cần gia tăng Quỹ dự trữ vàng và sẵn sàng tăng cung vàng miếng một khi giá vàng SJC cao hơn bất thường so với giá vàng thế giới để bình ổn giá.