Đầu tư còn khiêm tốn
Theo số liệu thống kê, đầu tư vào các công ty giải pháp AI của Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines đều còn rất hạn chế. Trong khi đó, Singapore, Trung Quốc, Hoa Kỳ đã đầu tư vào AI trên đầu người đạt mức khá cao, riêng Hoa Kỳ đã đạt 155 USD trên đầu người. Điều đó đặt ra thách thức cho Việt Nam là cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Nếu DN thiếu tư duy để thay đổi, hạ tầng không đồng bộ và không có phương thức tổ chức triển khai thực hiện chiến lược chuyển đổi phù hợp sẽ dẫn đến sự thất bại. Chính vì vậy, để ứng dụng tốt chuyển đổi số trong ngành logistics, DN cần nhận thức có thể tận dụng quá trình số hóa để đem lại nhiều lợi ích, như: tăng hiệu quả, xây dựng lòng tin giữa các đối tác thương mại và các bên liên quan, định tuyến cung ứng tối ưu, quản trị tốt phương tiện vận tải, ra quyết định thông minh trên công cụ điện toán nhận thức và hỗ trợ AI.
Thực tế cho thấy, công nghệ số sẽ giúp ngành logistics vượt qua các thách thức bằng cách tối ưu hóa quy trình, giao tiếp từ đầu đến cuối, quản lý chuỗi cung ứng, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và kiểm soát chi phí. Theo một nghiên cứu mới đây, công nghệ số nói chung và AI nói riêng có thể chuyển nền kinh tế khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam, sang một nấc thang cao hơn. Nếu các thành viên ASEAN bắt kịp tốc độ áp dụng AI, có thể tăng thêm gần 1.000 tỷ USD (riêng Việt Nam trên 100 tỷ USD) vào tổng sản phẩm quốc nội của khu vực năm 2030.
Cần giải pháp hiệu quả
Cùng với sự nỗ lực của cộng đồng DN, nên chăng cũng cần xây dựng các chính sách vĩ mô. Đầu tiên là chính sách tiêu chuẩn logistics chung của quốc gia. Trong kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn là ưu tiên số 1, do đó cần xây dựng chính sách tiêu chuẩn logistics chung của Việt Nam phù hợp với xu hướng tiêu chuẩn và quy tắc chuyển đổi số của các nước công nghiệp phát triển; đảm bảo sự kết nối hoàn hảo tất cả tiêu chuẩn phần mềm, phần cứng của hệ thống logistics và giao thông nhằm tạo sức mạnh cộng hưởng.
Tiếp theo là đào tạo kỹ năng kỹ thuật số. Bất kỳ giải pháp công nghệ nào cũng phải tính đến ảnh hưởng tới người lao động và đặt con người lên hàng đầu. Chúng ta cần xây dựng cam kết chung để đào tạo kỹ năng kỹ thuật số cho lực lượng lao động.
Kế tiếp là liên kết các nguồn lực kinh tế xã hội (capital cluster). Logistics là đáy của kim tự tháp, cần thiết không chỉ cho tất cả hoạt động của chuỗi cung ứng mà còn cho tất cả hoạt động kinh tế như du lịch, thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực cần nhiều nguồn lực nhất để đầu tư và ngược lại. Ngành logistics với sự ứng dụng của công nghệ số sẽ là nguồn lực quan trọng nhất của nguồn lực sản phẩm quốc gia và là nền tảng kết nối chặt chẽ với 4 nguồn lực chủ yếu còn lại (tài nguyên, con người, tài chính, xã hội).
Về xã hội là phát triển các kết nối cảng biển, hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau cảng biển với đường không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa với các khu công nghiệp, trung tâm thương mại và đô thị trong cả nước. Phát triển hải quan điện tử, hội logistics, nhà cung cấp phụ trợ, cơ sở giáo dục, nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành hỗ trợ lẫn nhau trong một khu vực không gian nhất định. Về vốn, tài chính: tập trung ưu tiên vốn cho các DN có chiến lược ứng dụng công nghệ số tốt và có tiềm năng thông qua các chính sách đầu tư công, tiền tệ và hợp tác PPP vào logistics. Đối với vốn con người: huy động nguồn nhân lực tinh hoa và có kỹ năng cao.
Về vốn tài nguyên: với đặc thù của sở hữu đất đai và tài nguyên bờ biển ở Việt Nam, nguồn lực này sẽ là điều khác biệt lớn nhất trong việc hiện đại hóa ngành logistics và giao thông ở Việt Nam, góp phần quyết định không chỉ phát triển kinh tế - xã hội mà còn bảo vệ môi trường. Chỉ có sự liên kết chặt chẽ các nguồn lực này mới đảm bảo sự thành công cho ngành logistics phát triển và tạo điều kiện để khởi xướng, đột phá và lan tỏa công cuộc đổi mới kinh tế. Được như vậy, ngành logistics với sự ứng dụng thành công công nghệ số sẽ là nguồn lực nền tảng để định vị quy mô kinh tế quốc gia trên trường quốc tế.
Cùng với đó là hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics. Chuỗi cung ứng là một lĩnh vực kinh doanh toàn cầu và hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi, vì vậy cần có chính sách đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm như ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng và khu vực miền Trung.
Cần coi trọng phát triển hội nhập kinh tế trong ASEAN, đó là trọng tâm để đàm phán thương mại quốc tế và xây dựng chiến lược chuỗi cung ứng quốc gia, đảm bảo vị trí quan trọng của Việt Nam trong khu vực. Trong đó, đặc biệt chú ý đến dự án xây dựng kênh đào Kra (Thái Lan), chắc chắn sẽ thay đổi cục diện của ngành hàng hải ASEAN và vận tải quốc tế, nhất là các tàu thương mại trên tuyến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Kênh đào mới này sẽ có lợi cho Việt Nam, xét về mặt kinh tế.
Cuối cùng là an ninh mạng. Chuyển đổi công nghệ số đem lại nhiều lợi ích, tuy nhiên việc ứng dụng nó cũng đem lại nhiều rủi ro. Vì vậy, cần tăng cường hợp tác, nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng khi xây dựng, triển khai chiến lược ứng dụng công nghệ.
Ứng dụng công nghệ số trong DN logistics là quá trình chuyển đổi đột phá mang tính khoa học cao, đòi hỏi sự tiên phong nghiên cứu và đề xuất mô hình phù hợp với quy hoạch kinh tế - xã hội từng khu vực cũng như môi trường thiên nhiên. Quá trình đó đòi hỏi những bước phát triển và mô hình thời gian phù hợp để đảm bảo sự thành công.
Tổng công ty Logiinds (thuộc Tập đoàn CT Group) là một ví dụ điển hình. Trong kế hoạch năm 2023, Logiinds sẽ tập trung xây dựng kho ngoại quan hiện đại tại sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và sân bay Đà Nẵng. Chiến lược xây dựng quá trình ứng dụng công nghệ số của Logiinds gồm 4 giai đoạn phát triển: khởi động chuyển đổi số, chuyển đổi mô hình kinh doanh kỹ thuật số, định hướng mới lĩnh vực kinh doanh và chuyển đổi cấu trúc doanh nghiệp.