Đề án nhằm đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt tỷ lệ 35% (khoảng 9.000 tiến sĩ) tổng số giảng viên các cơ sở giáo dục đại học, trong đó đào tạo khoảng 5.000 tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường đại học có uy tín trên thế giới, từ 2017-2025 mỗi năm tuyển chọn khoảng từ 600 - 700 nghiên cứu sinh đi đào tạo ở nước ngoài.
Cùng với đó, đào tạo khoảng 500 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường đại học Việt Nam và trường đại học nước ngoài, từ năm 2017 đến năm 2025 mỗi năm tuyển chọn khoảng 60-70 người; đào tạo khoảng 2.000 tiến sĩ tại các trường đại học đã được kiểm định ở Việt Nam. Đồng thời, thu hút khoảng 1.500 tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc ngoài các cơ sở giáo dục đại học đến làm việc tại các trường đại học tại Việt Nam.
Tổng kinh phí thực hiện Đề án dự kiến là 12.000 tỷ đồng, bao gồm 10.200 tỷ đồng từ kinh phí còn lại của Đề án đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH-CĐ giai đoạn 2010-2020 được phê duyệt theo Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 17-6-2010 của Thủ tướng Chính phủ và 1.800 tỷ đồng từ các cơ sở giáo dục đại học và đối tượng thụ hưởng đề án. Thời gian thực hiện, từ năm 2018-2025, tầm nhìn 2030.
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, số lượng giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ mới chỉ đạt 22,7%. Tỷ lệ này trong các trường CĐ Sư phạm chỉ là 3,4%; thấp hơn tỷ lệ chung của nhiều quốc gia khác trong khu vực và thế giới.
Đề án này của Bộ GD-ĐT đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều của xã hội.
Sáng 16-11, bên hành lang Quốc hội, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ đã trả lời báo chí về vấn đề này.
*Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, dư luận đang rất quan tâm đến dự thảo đề án đào tạo tiến sĩ mà Bộ GD-ĐT đề xuất? Việc kiểm soát, giao chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ cho các cơ sở đào tạo như thế nào để nâng cao chất lượng?
*Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: Sẽ không giao chỉ tiêu mà Bộ GD-ĐT sẽ đưa ra các cơ chế chính sách để quản lý chất lượng, khuyến khích và giám sát. Các cơ sở đào tạo căn cứ vào nhu cầu của mình phải có trách nhiệm.
Cách tiếp cận của đề án này là Nhà nước định hướng và hỗ trợ chứ không làm thay. Còn các cơ sở giáo dục đào tạo và bản thân người đi học phải có trách nhiệm, đảm bảo chất lượng. Nếu người đi học đáp ứng được các tiêu chuẩn, yêu cầu thì sẽ được nhà nước cấp học bổng, có thể toàn phần, có thể một phần. Và như vậy sẽ mở rộng đối tượng ra tất cả mọi người đều có thể tham gia, không phân biệt công lập hay tư thục.
* Có nhiều ý kiến cho rằng, thực tế đào tạo tiến sĩ trong nước thời gian qua có nhiều vấn đề. Giờ lại đặt ra mục tiêu đào tạo bao nhiêu tiến sĩ như thế thì liệu có quản lý được không?
* Trước đây thì có thể có cơ sở như vậy nhưng giờ đã khác. Bộ GD-ĐT quản lý chặt chẽ bằng quy chế đào tạo tiến sĩ, kiểm tra rất nghiêm minh. Vai trò quản lý nhà nước được đề cao thông qua kiểm định chất lượng và giám sát, đưa ra quy chế đào tạo tiến sĩ với chuẩn từng bước tiếp cận quốc tế.
Còn người đi học và cơ sở đào tạo thì tiến tới là họ phải có trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Vai trò của Bộ GD-ĐT là ban hành các chuẩn, quy chuẩn. Chẳng hạn vừa rồi Bộ GD-ĐT đã ban hành quy chế là học phải có thời gian tập trung, phải có một bài đăng tạp chí quốc tế… đáp ứng được mới công nhận. Còn nếu cơ sở đào tạo nào không đáp ứng được quy chế đó thì không được công nhận.
* Vậy kinh phí 12.000 tỷ đồng để đào tạo tiến sĩ sẽ rót về cho các cơ sở đào tạo?
* Không rót về cơ sở nào cả mà là cho những người trực tiếp đáp ứng được các tiêu chuẩn để được nhận học bổng. Tức là số tiền này là dạng học bổng, ai dành được thì được nhà nước ưu đãi đào tạo, chứ không phải chia tiền rót về địa phương, rót về các cơ sở.
*Việc thu hút những người sau khi được hưởng bổng đi đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài trở về nước làm việc sẽ như thế nào?
* Cái quan trọng là đào tạo phải gắn với nhu cầu sử dụng. Người sử dụng lao động có nhu cầu tuyển dụng, cử người đi học, chứ không phải cứ đào tạo ồ ạt ra rồi tiến sĩ tự đi tìm việc. Cách tiếp cận bây giờ là đào tạo phải gắn chặt với nhu cầu sử dụng lao động. Các cơ sở đào tạo phải có trách nhiệm, chủ động để quy hoạch và phát triển đội ngũ, trong đó có đội ngũ đào tạo. Căn cứ vào đó thì Bộ GD-ĐT hỗ trợ bằng cơ chế chính sách, chứ không phải đề án là cử đi học, cắt biên chế rồi đi đào tạo xong không về.
Đổi mới cơ chế quản lý đào tạo về tiến sĩ trong đề án lần này rất khác với cách làm truyền thống. Tổng số tiền không thay đổi, thậm chí vẫn trong số tiền đã được quốc hội phê duyệt chi. Không nhất thiết cứ phải dùng hết mà phải căn cứ vào chất lượng đào tạo, nếu không tiêu hết thì trả lại Chính phủ.
Tôi nhấn mạnh lại quan trọng nhất là chất lượng đào tạo. Trong đề án này rất chú trọng việc đề cao trách nhiệm của cơ sở đào tạo và người đi học. Còn vai trò của Bộ GD-ĐT là đưa ra cơ chế chính sách và định mức, để làm sao định mức đề ra không quá chênh với định mức của các tổ chức khác và khuyến khích người đi học.
Đề án đào tạo 9.000 tiến sĩ không phải là đề án mới
Tỷ lệ tiến sĩ ở ta hiện nay khoảng 21%, như vậy là quá thấp nên phải nâng tỷ lệ này lên. Theo đề án 911 là phải 35%. Nếu với 9.000 tiến sĩ như trong đề án thì cũng mới chỉ đáp ứng được 30%.
Đề án đào tạo 9.000 tiến sĩ này không phải là đào tạo mới hoàn toàn và đề án này cũng không phải là đề án mới. Đây là đề án chỉnh sửa từ đề án 911, trong đó tập trung sâu vào việc thu hút các tiến sĩ đã đào tạo ở nước ngoài.
Rồi cơ chế, chính sách làm sao để cho các tiến sĩ làm việc tốt, đặc biệt là với các tiến sĩ kiêm nhiệm. Hiện nay, số tiến sĩ kiêm nhiệm vào khoảng 10.000.
Hiện nay có rất nhiều nguồn tiến sĩ. Chúng ta phải tạo điều kiện cho các nhà khoa học về các trường đại học để cống hiến. Đồng thời chú trọng đào tạo thạc sĩ. Chứ không phải đào tạo tràn lan.
Như vậy, đề án 9.000 tiến sĩ không phải là đề án mới, mà là thay đổi và nâng cao chất lượng của đề án 911 trước đây.
(Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ)