Luật Cảnh vệ sửa đổi có hiệu lực từ 1-1-2025.
Luật Cảnh vệ hiện hành quy định đối tượng cảnh vệ gồm: Tổng Bí thư; Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; nguyên Tổng Bí thư, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Chủ tịch Quốc hội, nguyên Thủ tướng Chính phủ; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ đã bổ sung thêm 3 chức danh vào diện đối tượng cảnh vệ là Thường trực Ban Bí thư, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Khoản 6 điều 10 của luật nêu trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, công tác đối ngoại thì Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ phù hợp với các trường hợp không thuộc diện được cảnh vệ.
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, ông Lê Tấn Tới, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cho biết, liên quan đến áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với trường hợp không thuộc đối tượng quy định của Luật Cảnh vệ, theo quy định của pháp luật thì Bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, bao gồm cả biện pháp cảnh vệ để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Do đó, luật lần này bổ sung quy định Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ là phù hợp với thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Công an.
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới giải thích việc áp dụng biện pháp cảnh vệ liên quan đến hạn chế quyền con người theo Hiến pháp nên cần phải quy định trong luật và giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định là phù hợp. Thực tiễn thống kê cũng cho thấy, từ năm 2018 đến nay, Bộ Công an đã triển khai công tác cảnh vệ với 56 đoàn không thuộc trường hợp cảnh vệ nhằm giải quyết yêu cầu thực tiễn đặt ra hoặc theo đề nghị của bộ, ngành, Đại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam.
Luật Cảnh vệ sửa đổi cũng đã cụ thể hóa quyền hạn của lực lượng cảnh vệ để thuận lợi trong công việc. Cụ thể, Tư lệnh Cảnh vệ, Cục trưởng Bảo vệ an ninh Quân đội có quyền phát hành thẻ, giấy, phù hiệu phục vụ công tác cảnh vệ trong và ngoài nước; trường hợp cần thiết được thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ bảo vệ trường hợp được cảnh vệ khi đi công tác nước ngoài.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thực tiễn cảnh vệ với lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước khi đi công tác nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật. Nguyên nhân là do khác nhau về thể chế chính trị, chế độ, biện pháp cảnh vệ và quy định quản lý, sử dụng vũ khí, do đó cần phải có cơ chế cho lực lượng cảnh vệ chủ động thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật của nước ngoài trong trường hợp cần thiết. Kinh phí do ngân sách nhà nước đảm bảo; tiêu chuẩn, quy trình, định mức, thanh quyết toán căn cứ vào pháp luật của nước sở tại và pháp luật của Việt Nam về ngân sách nhà nước, quản lý tài sản công.
Luật cũng quy định Bộ trưởng Bộ Công an được cấp giấy bảo vệ đặc biệt cho sĩ quan cảnh vệ thuộc Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng để thực hiện công tác cảnh vệ. Giấy này chỉ được sử dụng khi thực hiện công tác cảnh vệ; sĩ quan cảnh vệ phải báo cáo ngay lãnh đạo đơn vị trực tiếp quản lý trong trường hợp giấy được cấp bị mất, hư hỏng. Bộ trưởng Bộ Công an sẽ quy định mẫu và chi tiết việc quản lý, sử dụng, cấp, cấp đổi, cấp lại, thu hồi, tiêu hủy giấy bảo vệ đặc biệt.