Để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân sử dụng tiết kiệm hàng hóa khi sử dụng gây tác hại đến môi trường; khuyến khích việc sử dụng các hàng hóa thân thiện với môi trường, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường; khắc phục những hạn chế về mức thuế BVMT hiện hành của một số hàng hóa… Bộ Tài chính đề xuất thay đổi mức thuế đối với một số loại mặt hàng.
Cụ thể, thuế BVMT với xăng tăng từ 3.000 đồng/lít lên mức trần 4.000 đồng/lít; dầu diesel tăng mức thuế từ 1.500 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít; dầu ma dút, dầu nhờn tăng mức thuế từ 900 đồng/lít lên mức trần 2.000 đồng/lít; mỡ nhờn: tăng mức thuế từ 900 đồng/kg lên mức trần 2.000 đồng/kg.
Với than đá, loại than antraxit tăng mức thuế từ 20.000 đồng/tấn lên 30.000 đồng/tấn; than nâu, than mỡ, than đá khác: tăng mức thuế từ 10.000 đồng/tấn lên 15.000 đồng/tấn.
Với túi ni lông, để góp phần thực hiện mục tiêu giảm dần việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy trong tiêu dùng, phù hợp với thông lệ quốc tế, bộ này đề nghị tăng mức thuế BVMT từ 40.000 đồng/kg lên mức trần 50.000 đồng/kg.
Đánh giá tác động về mặt xã hội, Bộ Tài chính cho rằng, việc điều chỉnh tăng mức thuế BVMT sẽ góp phần khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường. Từ đó, sẽ giảm phát thải ô nhiễm, góp phần vào thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về BVMT.
Còn tác động về kinh tế, với phương án điều chỉnh mức thuế BVMT đối với xăng chỉ tăng 1.000 đồng/lít đối với xăng và nếu giá dầu thô không biến động nhiều, các yếu tố khác cấu thành giá cơ sở xăng dầu không thay đổi thì tỷ lệ tăng thuế BVMT trong giá bán khoảng 4,9%; đối với dầu diesel khoảng 3,2%; đối với dầu ma dút khoảng 8,9%; đối với dầu nhờn khoảng 0,6% và đối với mỡ nhờn khoảng 2,3%.