Để chuẩn bị cho kỳ họp thứ 9 của Quốc hội, Bộ Quốc phòng vừa gửi đến ĐBQH báo cáo trả lời kiến nghị cử tri.
Tại báo cáo, Bộ Quốc phòng cho biết, cử tri thành phố Hải Phòng phản ánh tình trạng người Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam đầu tư, kinh doanh và thu mua đất đai gần các khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh hiện nay là “rất đáng ngại”.
Theo Bộ Quốc phòng, tính đến ngày 30-11-2019, có 149 doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc (92 doanh nghiệp 100% vốn Trung Quốc, 57 doanh nghiệp vốn liên doanh) đang hoạt động ở khu vực biên giới của 22/44 tỉnh, thành biên giới, trong đó, khu vực biên giới đất liền có 24 doanh nghiệp, khu vực biên giới biển có 125 doanh nghiệp.
Trong số này, có 134 doanh nghiệp đang hoạt động, 15 doanh nghiệp đã triển khai nhưng tạm ngưng hoạt động. Các DN sử dụng đất với tổng diện tích 162.467,7 ha (trong đó có 943,7 ha thuộc khu vực biên giới đất liền và 5.393,7 ha khu vực biên giới biển, kể cả mặt biển). Các DN sử dụng đất có thời hạn thuê từ 5 đến 50 năm; lĩnh vực hoạt động chủ yếu là kinh doanh khách sạn, nhà hàng, du lịch, vui chơi giải trí, may mặc, nuôi trồng thủy sản, giày da, sản xuất bao bì, đồ chơi trẻ em, linh kiện điện tử...
Tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp này là 30,872 tỷ USD, trong đó khu vực biên giới đất liền 1,637 tỷ USD, khu vực biên giới biển 29,235 tỷ USD.
Về lao động, hiện có có 4.239 lao động người Trung Quốc đang làm việc tại các doanh nghiệp trên (khu vực biên giới đất liền 374 người, khu vực biên giới biển 3.865 người).
Địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp Trung Quốc là ở các tỉnh, thành: Đà Nẵng (22), Quảng Ninh (17), Hải Phòng (16), Bình Định (9), Hà Tĩnh (5), Bình Thuận (5)...
Tuy nhiên, các doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc ở khu vực biên giới đều hình thành từ tháng 12-2018 trở về trước (năm 2019 không có doanh nghiệp mới nào). Trước khi cấp phép cho các doanh nghiệp này đầu tư, các cơ quan chức năng đều đã tiến hành thẩm định, phê duyệt.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc cơ bản chấp hành đúng pháp luật Việt Nam. Mặc dù vậy, vẫn có một số doanh nghiệp đưa lao động người Trung Quốc sang làm việc nhưng lại nhập cảnh dưới hình thức du lịch; sử dụng lao động Trung Quốc không khai báo, đăng ký theo quy định, thậm chí có doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân tuyển dụng lao động người nước ngoài nhưng vẫn tuyển dụng (Bình Định, Đà Nẵng, Bình Thuận).
Có tình trạng DN đầu tư “núp bóng” danh nghĩa doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong các lĩnh vực du lịch, nuôi trồng, chế biến, thu mua hải sản nhưng thực chất việc điều hành, quản lý do người Trung Quốc đảm nhiệm (Khánh Hòa, Quảng Ninh).
Một số doanh nghiệp dưới vỏ bọc kinh doanh, sản xuất nhưng đã có hoạt động tội phạm công nhệ cao, sản xuất ma túy (Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Phú Yên, Kon Tum). Có doanh nghiệp trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường (Hà Tĩnh, Hải Phòng).
Cơ quan chức năng đã xử lý một số vụ việc có yếu tố liên quan đến người Trung Quốc: 3 vụ/63 người không khai báo tạm trú, 3 vụ/87 người không có giấy phép lao động, 1 vụ/285 công nhân Trung Quốc xô xát với công nhân Việt Nam, 1 vụ/3 trường hợp kết hôn trái phép, 4 vụ/310 lao động không chấp hành quy định trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp.
Về việc người Trung Quốc sở hữu đất có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh, Bộ Quốc phòng đã thống kê rất cụ thể từng trường hợp doanh nghiệp và cả cá nhân ở thành phố Đà Nẵng sở hữu, “núp bóng” sở hữu và thuê đất tại các vị trí dọc các khu đô thị ven biển; ven tường rào sân bay Nước Mặn, đường Hoàng Sa, Võ Nguyên Giáp, thuộc phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn; khu đô thị các phường Phước Mỹ, Thọ Quang, quận Sơn Trà.
Để sở hữu các lô đất ở thành phố Đà Nẵng, người Trung Quốc chủ yếu dựa theo hai hình thức: Thành lập doanh nghiệp liên doanh với Việt Nam; ban đầu, người Trung Quốc góp vốn thấp hơn người Việt Nam (người Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng đất), doanh nghiệp sẽ do người Việt Nam điều hành; sau một thời gian, bằng nhiều cách, người Trung Quốc tăng vốn giành quyền điều hành doanh nghiệp; do tài sản góp vốn là đất nên quyền sở hữu các lô đất rơi vào tay người Trung Quốc; đầu tư tiền cho cá nhân người Việt Nam (chủ yếu người Việt gốc Hoa) để mua đất, đã phát hiện một số trường hợp kinh tế khó khăn nhưng đứng tên sở hữu nhiều lô đất như ông Lý Phước Cang 12 lô, ông Trác Ngọc Phúc 10 lô... Hầu hết các lô đất đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ - Báo cáo trả lời cử tri nêu rõ.
Công nhận việc cử tri và dư luận xã hội “đáng ngại” về việc cơ quan chức năng thành phố Đà Nẵng cấp chứng nhận quyền sử dụng 21 lô đất cho người Trung Quốc là có cơ sở, Bộ Quốc phòng cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành và UBND thành phố Đà Nẵng xác minh làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, để sở hữu các lô đất người Trung Quốc đã nghiên cứu, lợi dụng kẽ hở của Luật Đầu tư năm 2014 “việc góp vốn bằng đất để liên doanh thành lập doanh nghiệp” và công tác quản lý nhà nước ở các lĩnh vực đầu tư, đất đai.
Giải pháp tới đây, theo Bộ Quốc phòng, là các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố rà soát đánh giá tổng thể các dự án đầu tư của nước ngoài, nhất là dự án liên quan đến người Trung Quốc tại khu vực biên giới, biển, đảo có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; kịp thời phát hiện, điều chỉnh những bất cập của Luật Đầu tư, Luật Đất đai và cơ chế quản lý, cấp phép các hoạt động đầu tư nhằm hạn chế sơ hở không để cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc lợi dụng hoạt động. Các đơn vị cần tăng cường công tác nắm tình hình, phối hợp với Công an rà soát các hoạt động của người Trung Quốc ở địa bàn đơn vị đảm nhiệm; chú ý các hoạt động lợi dụng vỏ bọc đầu tư, liên kết, núp bóng để hoạt động chống phá. Kịp thời phát hiện báo cáo Bộ Quốc phòng tham mưu với Chính phủ chỉ đạo xử lý, ngăn chặn.