Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (gọi tắt là Luật số 34) có hiệu lực từ ngày 1-7-2019 đã giao cho cơ sở giáo dục đại học được quyền quyết định mức học phí phù hợp với chất lượng giáo dục mà mình cung cấp nên việc quyết định học phí thế nào là quyền tự chủ của từng trường. Tuy nhiên, đây liệu có phải là cơ sở để các trường muốn tăng bao nhiêu thì tăng hay không?
Đủ loại học phí
Theo Nghị định 86/2015 của Chính phủ, đối với các trường thí điểm tự chủ (23 trường công lập tự chủ trong giai đoạn 2015-2017) và trường công tự đảm bảo kinh phí chi thường xuyên, 2 năm tăng học phí một lần. Trong khi đó, đối với các trường công lập khác (vẫn còn nhà nước bao cấp), học phí điều chỉnh hàng năm, năm sau cao hơn năm trước 700.000-900.000 đồng/năm. Như vậy, từ năm 2015 đến 2021, các trường công lập tự chủ và những trường chưa tự chủ được quyền điều chỉnh học phí so với năm trước nhưng mức tăng vẫn nằm trong khuôn khổ chứ không thể muốn tăng bao nhiêu cũng được.
Tuy nhiên, hiện nay ngay cả những trường công lập chưa tự chủ thì học phí cũng như ma trận: nào là học phí chương trình đại trà, chương trình chất lượng cao (CLC), chương trình tiên tiến, chương trình liên kết quốc tế. Ví dụ như Trường ĐH Kinh tế Luật (ĐH Quốc gia TPHCM), chương trình đại trà 9,8 triệu đồng/năm, chương trình CLC và chương trình CLC bằng tiếng Pháp cùng 27,8 triệu đồng/năm, chương trình CLC cao bằng tiếng Anh 46,3 triệu đồng/năm, chương trình liên kết quốc tế từ 268-275 triệu đồng/3,5 năm. Hay như Khoa Y của ĐH Quốc gia TPHCM, năm 2020 tăng thêm 10% so với năm trước, từ 55-88 triệu đồng mỗi năm, tùy ngành học và được đào tạo theo hệ CLC với 30%-40% tín chỉ học bằng tiếng Anh: ngành Y khoa 60 triệu đồng/năm, Dược học 55 triệu đồng/năm, Răng-Hàm-Mặt 88 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, khoa này cũng đưa ra thông tin trong đó năm học đầu học phí từng ngành sẽ thấp hơn mức trên, các năm cuối sẽ cao hơn.
Trong khi đó, Trường ĐH Cần Thơ học phí chia thành 3 nhóm: nhóm 1 là sư phạm (13 ngành) miễn học phí; nhóm 2 (khối ngành khoa học xã hội, kinh tế, luật, nông, lâm, thủy sản) học phí 9,8 triệu đồng/năm; nhóm 3 (khối ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao, nghệ thuật, khách sạn, du lịch) 11,7 triệu đồng/năm. Hai nhóm này có 69 ngành. Còn hệ CLC có 8 ngành với học phí ấn định là 27-28 triệu đồng/năm. 2 chương trình tiên tiến (CNTT, Nuôi trồng thủy sản) học phí cao hơn 2,2 lần so với Nghị định 86 (khoảng 25,74 triệu đồng/năm). Tuy nhiên mức học phí này sang năm 2021 vẫn tiếp tục điều chỉnh.
Như vậy, học phí của các trường công chưa tự chủ hiện nay vẫn theo khung của Nghị định 86 nhưng vấn đề đáng nói chính là chương trình CLC học phí nhảy múa và đây cũng chính là cơ sở để các trường xoay xở để bù lại với mức học phí của Nghị định 86.
Không tăng học phí khó đảm bảo chất lượng
Nguồn thu hiện nay của các trường (cả trường công lẫn tư thục) có đến trên 90% từ học phí của sinh viên. Do đó, nếu không tăng chi phí đào tạo, trong đó có tăng học phí, chắc chắn không thể nói đến đào tạo có chất lượng, nguồn nhân lực đủ sức cạnh tranh với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, việc tăng học phí từ trước đến nay luôn đối diện với phản ứng gay gắt vì dư luận cho rằng ảnh hưởng đến người học. Phương án tăng học phí của các trường có con số rõ ràng, song đột phá khâu chất lượng đào tạo thì chỉ ở dạng tiềm ẩn, rất khó chứng minh được ngay nên vì vậy khó tránh khỏi phản ứng của dư luận.
Từ ngày 1-1-2020, Trường ĐH Y Dược TPHCM được quyết định tự chủ (tự chủ về chi thường xuyên, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản vẫn được ngân sách đầu tư). Kỳ tuyển sinh năm 2020 trường công bố mức học phí mới từ 30-68 triệu đồng/năm (năm 2019 học phí 13 triệu đồng cho tất cả các ngành) thì dư luận cảm thấy bất ngờ và thốt lên: quá sốc!
Lý giải về tăng học phí, PGS-TS Trần Diệp Tuấn, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược TPHCM, cho rằng: “Chúng tôi muốn nâng cao chất lượng hơn nữa cho đào tạo ngành y và muốn xã hội hóa trong khi ngân sách còn quá eo hẹp. Khi tự chủ thì không còn được ngân sách cấp hàng năm nên phải tính toán mức học phí cho phù hợp. Thật sự với mức học phí này không phải quá cao so với nhiều ngành khác, trong khi chương trình đào tạo chúng tôi đầu tư xây dựng và cập nhật theo chuẩn của ĐH Y Harvard, đầu tư cơ sở, trang thiết bị hiện đại để sinh viên thực hành, thực tập. Chúng tôi muốn nguồn nhân lực y tế phải cạnh tranh không chỉ trong nước mà với cả khu vực và thế giới”.
PGS-TS Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, thẳng thắn: “Mặc dù tự chủ nhưng học phí cũng phải theo lộ trình chứ không phải muốn tăng bao nhiêu cũng được. Hiện tại học phí của các trường tự chủ hệ đại trà thấp hơn nhiều so với trường tư. Với mức học phí hiện nay, các trường tự chủ những năm đầu chỉ bù được phần kinh phí chi thường xuyên, đủ trả lương và mua sắm, sửa chữa. Còn để đầu tư phát triển thì phải vài năm nữa”.
“Nói tăng học phí làm cản trở người nghèo tiếp cận ĐH chỉ đúng một phần. Trên thực tế, đề án tự chủ ghi rõ: Xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên bằng việc trích 8% học phí và toàn bộ tiền lãi ngân hàng, nên quỹ này thường tăng lên gấp 3 sau tự chủ. Nó giúp trường cấp nhiều học bổng cho các sinh viên nghèo và diện chính sách. Nếu tín dụng sinh viên được cải thiện thì sẽ không có chuyện làm cản trở việc học. Riêng tại trường, quỹ học bổng và hỗ trợ sinh viên tăng từ 8 tỷ đồng lên 28 tỷ đồng sau tự chủ. Sau tự chủ, trường bị cắt 55 tỷ đồng chi thường xuyên mỗi năm mà học phí chỉ cho tăng trong khuôn khổ nên thu chưa đủ bù chi và nuôi cán bộ giảng viên”, PGS-TS Đỗ Văn Dũng phân tích.
PGS-TS Nguyễn Hội Nghĩa, nguyên Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM, nhìn nhận: “Bối cảnh hiện nay đòi hỏi các trường ĐH phải nỗ lực rất nhiều nhằm bảo đảm chất lượng đầu ra, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, hội nhập, quốc tế hóa, yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, cạnh tranh trong và ngoài nước, thị trường lao động ASEAN, châu Á và thế giới… Với chủ trương lớn là ngành giáo dục cần có lộ trình giảm dần bao cấp của Nhà nước theo tinh thần Nghị định 86, nhằm bảo đảm chất lượng, đồng thời tăng cường năng lực cho cả 3 mảng là đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, các trường ĐH cần có nguồn lực nhất định”. |