Trường chưa tự chủ thiếu kinh phí
Theo Nghị định 86, mức học phí đối với sinh viên trường công lập chưa tự chủ hiện nay là: khối ngành khoa học xã hội, kinh tế, luật, nông, lâm, thủy sản - 9,8 triệu đồng/năm; khối ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao, nghệ thuật, khách sạn, du lịch - 11,7 triệu đồng/năm; khối ngành y dược - 14,3 triệu đồng/năm. Học phí đối với đào tạo thạc sĩ là nhân thêm 1,5 lần, tiến sĩ nhân 2,5 lần. Tuy nhiên, mức học phí này mới chỉ đảm bảo 50% chi phí đào tạo, phần còn lại là Nhà nước hỗ trợ bằng ngân sách cấp hàng năm cho các trường.
PGS-TS Trần Diệp Tuấn, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược TPHCM, cho biết học phí năm 2019 của trường là 13 triệu đồng cho tất cả các ngành. Hàng năm trường được Bộ Y tế cấp chi phí đào tạo khoảng 130 tỷ đồng (50%). Trong khi đó, quy mô sinh viên hiện nay là hơn 9.000 sinh viên. Nếu tính toán chi li thì nguồn ngân sách này mới chỉ đủ trả lương cho cán bộ giảng viên. Học phí 13 triệu đồng của sinh viên cho việc học (lý thuyết, thực hành, thực tập) là cả một vấn đề.
Riêng ở trường này không có chương trình chất lượng cao, liên kết… để xoay xở. Ngay cả hệ cử tuyển, học phí địa phương cũng trả chậm. Do đó, để phát triển hơn thì một là ngân sách nhà nước đầu tư phải rất nhiều hơn hiện nay, hoặc là phải tự chủ, xã hội hóa để sinh viên trả học phí cao hơn.
PGS-TS Huỳnh Thanh Hùng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm TPHCM, cho biết quy mô sinh viên chính quy của trường khoảng 20.000 người (chưa tính học viên cao học, nghiên cứu sinh). Ngân sách hàng năm Bộ GD-ĐT cấp đảm bảo khoảng 30% chi trả lương, phần còn lại là dựa vào học phí, nếu năm nào có dự án thì có thêm.
“Hàng năm trường có chương trình đối thoại Nói sinh viên nghe - Nghe sinh viên nói, khi nói tăng học phí thì sinh viên nói lại nghe rất tội. Thật ra, nếu tính đúng tính đủ để đảm bảo chi phí đào tạo thì sinh viên không đủ khả năng đóng học phí đâu. Nói thật, bài toán tăng học phí, tự chủ không hề dễ, và càng không dễ với những trường đa ngành như trường tôi. Ví dụ như những ngành kỹ thuật, công nghệ máy móc đầu tư phải từ vài tỷ đến chục tỷ đồng. Nhưng đâu phải đầu tư một lần là xài vĩnh viễn, mà phải có thời hạn”.
Trong khi đó, với các trường sư phạm, sinh viên không phải đóng học phí mà do Nhà nước cấp hàng năm dựa trên chỉ tiêu. Tuy nhiên, các trường sư phạm luôn ở trong thế bù lỗ và phải chờ ngân sách. TS Nguyễn Minh Hồng, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm TPHCM, cho biết: Trường hiện có hơn 12.000 sinh viên chính quy theo học, trong đó các ngành đào tạo giáo viên chiếm 50% số sinh viên. So với nhu cầu chi thường xuyên, ngân sách cấp cho trường hiện nay đảm bảo khoảng 50% - 60%.
Trường ưu tiên việc trả đúng các chế độ về lương và phụ cấp cho người lao động và học bổng cho sinh viên, đồng thời khai thác các nguồn thu dịch vụ để bổ sung nguồn kinh phí chi hoạt động thường xuyên, khai thác các nguồn lực hỗ trợ về tăng cường cơ sở vật chất, nghiên cứu khoa học, hợp tác đào tạo, nghiên cứu… Với kinh phí như trên, để đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ đào tạo, trường luôn phải tiết kiệm chi tiêu. Tuy nhiên, một số định mức chi hiện nay không còn phù hợp, chưa đủ so với nhu cầu thực tế.
Chính vì mức học phí thấp như vậy nên các trường công lập phải xoay xở bằng cách “đẻ” ra rất nhiều chương trình đào tạo để trang trải, như liên kết đào tạo, liên kết quốc tế, chương trình tiên tiến (học phí cả trăm triệu đồng), chương trình chất lượng cao (học phí cao gấp 2 - 3 lần so với mức học phí quy định của Nghị định 86)…
Trường tự chủ cũng chưa đủ chi phí đào tạo
Từ Nghị quyết 77, hiện nay có 23 trường ĐH công lập được tự chủ (có trường tự chủ chi thường xuyên, có trường tự chủ hoàn toàn) với mức học phí cao hơn nhưng vẫn không thể vượt quá khung của Nghị định 86. Mức trần học phí đối với các chương trình đào tạo đại trà trình độ ĐH tại cơ sở giáo dục công lập tự bảo đảm kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư áp dụng theo các khối ngành, chuyên ngành đào tạo từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021 như sau: khối ngành khoa học xã hội, kinh tế, luật, nông lâm thủy sản, học phí 20,5 triệu đồng/năm; khối ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao, nghệ thuật, khách sạn, du lịch là 24 triệu đồng/năm; khối ngành y dược là 50,5 triệu đồng/năm.
PGS-TS Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, cho biết: “Trường được thí điểm tự chủ 3 năm nay. Khi chuyển sang tự chủ, ngân sách hàng năm Bộ GD-ĐT rót về trường (vài chục tỷ đồng) không còn. Do đó, trường phải tính toán tất cả chi phí đào tạo để đưa ra mức học phí phù hợp. Có một số ngành hiện nay (chương trình đại trà) học phí dưới 20 triệu đồng, thấp hơn cả mức học phí quy định của Nghị định 86. Thực sự, nếu để đảm bảo chất lượng đào tạo thì học phí khối ngành kỹ thuật hiện nay phải 50 triệu đồng/năm may ra mới đủ. Tuy nhiên, nếu học phí cao quá thì chắc chắn sẽ đối diện nguy cơ không có người học. Thực tế đã có trường rơi vào tình huống này là Trường ĐH Bách khoa Đà Nẵng (thuộc ĐH Đà Nẵng), học phí cao quá nên người học ngay lập tức quay lưng, dẫn đến điểm đầu vào thấp, đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Nếu các trường tự chủ đưa ra mức học phí cao quá thì sẽ có hiện tượng sinh viên chạy sang các trường khác, hoặc đi du học, hoặc rẽ sang học nghề”.
Nhiều trường tự chủ khác như ĐH Kinh tế TPHCM, ĐH Tài chính Marketing TPHCM, ĐH Công nghiệp TPHCM, cũng cho rằng bài toán chi phí đào tạo rất khó với trường tự chủ trong điều kiện hiện nay. Nếu thu học phí cao quá thì sợ tuyển không đủ chỉ tiêu, mà không đủ chỉ tiêu sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu cả một khóa (4 năm), kèm theo đó là các chi phí cho mọi hoạt động khác của trường. Khi chưa tự chủ, nếu không tuyển đủ chỉ tiêu thì hàng năm vẫn có ngân sách, còn đã tự chủ mà tuyển sinh không được thì mọi hoạt động của nhà trường hết sức khó khăn.
Với mức học phí trường công lập chưa tự chủ hiện nay, không chỉ Trường ĐH Y Dược TPHCM mà tất cả những trường đại học khác trên cả nước đều rất khó khăn để đảm bảo chất lượng đào tạo, cạnh tranh về chất lượng đào tạo với các trường ĐH trong khu vực. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, nếu không tăng học phí, không tính đúng tính đủ để đảm bảo chi phí đào tạo thì rất khó để đổi mới chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng. Ngân sách nhà nước đầu tư phải có trọng điểm để phát huy hiệu quả, những ngành nghề nào cần tự chủ, xã hội hóa thì nên cho tự chủ. So sánh về chi phí đào tạo cho một sinh viên/năm của Việt Nam với châu lục và thế giới thì sẽ thấy có sự khác biệt quá lớn. Chi phí cho một sinh viên của Việt Nam hiện nay ở mức 16,2 triệu đồng/năm (thống kê của Bộ GD-ĐT năm 2017), trong khi của Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan… vài chục triệu đến cả trăm triệu đồng/năm. Còn đối với những trường ĐH uy tín thì học phí càng cao hơn rất nhiều. |