Việt Nam và Campuchia là 2 quốc gia láng giềng gần gũi. Tình đoàn kết truyền thống giữa những dân tộc anh em cùng uống nước nguồn từ nhiều con sông chảy từ Tây sang Đông càng gắn bó hơn trong những năm tháng kề vai sát cánh trong 2 cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng do bị các thế lực phản động, thù địch nước ngoài kích động, lợi dụng, cũng như những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chế độ Khmer Đỏ mà đứng đầu là tập đoàn phản động Pôn Pốt đã phá hoại truyền thống tốt đẹp; thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia và xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Tội ác chất chồng
Quân Pôn Pốt đã tiến hành một số vụ tiến công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia, đồng thời gây chia rẽ nội bộ những người cộng sản Campuchia. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1973, tập đoàn tội ác này đã sát hại và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí.
Ở trong nước, tháng 4-1975, sau khi lên nắm quyền, Pôn Pốt thực thi chính sách diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người dân Campuchia; biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể... Trong 3 năm 8 tháng 20 ngày nắm quyền, chế độ Pôn Pốt đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong.
Đối với Việt Nam, tập đoàn phản động Pôn Pốt phá nát mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống lâu đời giữa Việt Nam và Campuchia; ra sức vu khống Việt Nam, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; kích động xét lại quan hệ 2 nước, đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Campuchia, vô cớ coi Việt Nam là kẻ thù số 1 và tiến hành hàng loạt cuộc xâm lấn biên giới, giết hại dân thường.
Năm 1975, khi đất nước Việt Nam vừa thống nhất, Pôn Pốt đã cho quân xâm lược các đảo, biên giới đất liền Tây Nam nước ta. Ngày 3-5-1975, chúng đánh chiếm đảo Phú Quốc. Ngày 10-5-1975, chúng tiếp tục đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích bộ đội biên phòng ta, di dời cột mốc biên giới ở một số điểm thuộc các tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk Lắk.
Tháng 10-1975, chúng xâm nhập khu vực Pa Chàm (Lổ Cồ), xâm canh các khu vực Mộc Bài, Khuốc, Vạt Sa, Tà Nốt, Tà Bạt. Cuối năm 1975, đầu năm 1976, quân Pôn Pốt bất ngờ tiến hành một số vụ xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam, có nơi hơn 10km, như ở vùng sông Sa Thầy thuộc các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, gây ra những tộc ác với nhân dân Việt Nam.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cho biết, đầu năm 1976, Pôn Pốt xác định: “Tai họa nhất cần phải chú ý là Việt Nam...”. Đi đôi với hành động xâm lược, tập đoàn phản động Pôn Pốt ra sức tuyên truyền, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”. Lấy cớ làm sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại dân, thực hiện nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu, trong đó tập trung vào số cán bộ trước đây được đào tạo ở Việt Nam.
Từ 30-4-1975 đến 30-4-1977, Pôn Pốt ráo riết chuẩn bị chiến tranh khi phân chia lại đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thôn, xã, huyện, tỉnh theo kiểu quân sự, thanh trừng những người chống đối, kích động tâm lý chống Việt Nam; xây dựng lực lượng, phát triển quân chủ lực từ 7 sư đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần binh chủng, hàng chục ngàn quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và trang thiết bị áp sát biên giới Việt Nam.
làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ảnh: T.L
Những nỗ lực ngoại giao bất thành
Trước hành động khiêu khích và mở rộng chiến tranh của tập đoàn Pôn Pốt, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm mong muốn chính sách hòa bình, tiếp tục phát triển tình hữu nghị đoàn kết giữa nhân dân 2 nước; các quân khu, tỉnh có đường biên giới với Campuchia nhận được chỉ thị tăng cường hữu nghị với nhân dân Campuchia, tránh mọi sự khiêu khích.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, tháng 12-1976, Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường của mình: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với 2 nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau; làm cho 3 nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước”.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo chung của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị các quân khu, quân đoàn, các tỉnh có đường biên giới với Campuchia tăng cường đoàn kết với nhân dân nước bạn, tránh mọi sự khiêu khích, xung đột. Lãnh đạo Bộ Quốc phòng còn chủ trương giảm số lượng lớn quân thường trực sang làm nhiệm vụ kinh tế, trong đó có cả các quân khu 5, 7, 9 có đường biên giới giáp Campuchia.
Tuy nhiên, chính quyền Khmer Đỏ liên tục vu cáo Việt Nam xâm phạm biên giới. Trước sự vu cáo của Khmer Đỏ, ngày 29-4-1977, Bộ Ngoại giao Việt Nam có công hàm trả lời phía Khmer Đỏ, bác bỏ sự vu khống của họ, đồng thời nêu rõ lập trường của Việt Nam là mong muốn giải quyết tốt vấn đề biên giới giữa 2 nước cũng như tiếp tục củng cố, mở rộng mối quan hệ giữa 2 nước.
Đêm 30-4-1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm 2 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tập đoàn Pôn Pốt đã mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Là người trực tiếp tham gia cuộc chiến, Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng, nhớ lại và khẳng định, thực chất Pôn Pốt đã tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam từ năm 1972. Ngay sau khi Khmer Đỏ tấn công biên giới Tây Nam, ngày 1-5-1977, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 họp khẩn cấp với chỉ huy các đơn vị bộ đội và các tỉnh có đường biên giới giáp với Campuchia. Bộ Tư lệnh nhận định, cuộc tiến công vào địa bàn tỉnh An Giang lần này có thể là trận mở đầu cho một cuộc chiến tranh lớn đã được tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chuẩn bị; đồng thời, chỉ thị các đơn vị kiên quyết bằng mọi giá chiến đấu, đẩy lùi lực lượng xâm lấn, bảo vệ đất đai, tài sản cho nhân dân ở vùng biên giới Tây Nam.
Tháng 9-1977, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiển đã có cuộc gặp Pôn Pốt tại Bắc Kinh. Tại đây, Thứ trưởng Phan Hiển đã nêu rõ lời đề nghị của lãnh đạo Đảng, Chính phủ Việt Nam về việc nối lại đàm phán vấn đề biên giới giữa 2 nước. Đáp lại việc chính quyền Campuchia Dân chủ công khai đưa vấn đề chiến tranh biên giới giữa 2 nước ra trước dư luận thế giới, ngày 31-12-1977, Chính phủ Việt Nam ra Tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia. Tuyên bố bác bỏ những vu khống của chính quyền Khơme Đỏ; vạch rõ sự thật về những vụ Campuchia tiến công Việt Nam từ tháng 5-1975; nêu rõ thiện chí, lập trường, nguyên tắc của Việt Nam. Tuyên bố bày tỏ mong muốn 2 bên sẽ gặp nhau càng sớm càng tốt, ở bất cứ cấp nào để giải quyết vấn đề biên giới 2 nước trên tinh thần “Hữu nghị anh em”.
Để tỏ rõ thiện chí, Việt Nam đã rút lực lượng vào sâu lãnh thổ, đồng thời liên tiếp đưa ra các đề nghị đàm phán với Campuchia Dân chủ. Ngày 5-2-1978, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố về quan hệ Việt Nam và Campuchia. Qua đó tiếp tục bày tỏ thiện chí giải quyết vấn đề biên giới bằng phương pháp hòa bình.
Cũng trong ngày 5-2-1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố lập trường 3 điểm để giải quyến vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia: 1. Chấm dứt ngay mọi hoạt động thù địch ở vùng biên giới. Lực lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ mình, cách đường biên giới 5km. 2. Hai bên gặp nhau ngay tại Hà Nội và Phnôm Pênh, hoặc một địa điểm nào trên biên giới giữa 2 nước để bàn bạc và ký một hiệp ước hữu nghị, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ với nhau. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Không tiến hành các hoạt động lật đổ, chống đối nhau. Đối xử bình đẳng, sống hòa bình, hữu nghị trong quan hệ láng giềng tốt. 2 bên sẽ ký một hiệp ước về biên giới giữa 2 nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của 2 nước trên đường biên giới hiện tại. 3. Sẽ thỏa thuận một hình thức thích hợp đảm bảo quốc tế và giám sát quốc tế.
Sau tuyên bố lập trường 3 điểm, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã liên tục gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao của Campuchia Dân chủ để nói rõ quan điểm, lập trường của Việt Nam; lên án sự vu cáo, bác bỏ những đề nghị vô lý của họ và đề nghị lãnh đạo cấp cao 2 nước nhanh chóng gặp gỡ, giải quyết vấn đề biên giới bằng phương pháp hòa bình. Tuy nhiên, phía Campuchia Dân chủ bỏ qua mọi đề nghị của Việt Nam, tiếp tục cho quân tiến công đánh chiếm, tàn sát nhân dân địa phương ở các tỉnh biên giới của Việt Nam.
Tháng 6-1978, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương họp đánh giá tình hình ở biên giới Tây Nam, xác định quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam; chủ trương phối hợp tác chiến quân sự, chính trị, ngoại giao, ra sức giúp đỡ lực lượng cách mạng Campuchia chân chính, đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari đang nắm quyền ở Campuchia.