50 năm ấy biết bao nhiêu tình

Năm nay, đồng loạt cả nước long trọng kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mới đó đã 50 năm đất nước kết thúc chiến tranh, bước vào kỷ nguyên xây dựng và phát triển, so với thời khắc vũ trụ chỉ là cái chớp mắt nhưng với một đời người thì có thể sơ kết cuộc đời được rồi. Chắc hẳn rằng nhiều người Việt Nam sẽ ngắm lại mình trong 50 năm vận động đi lên của quê hương, đất nước.

50 năm ấy biết bao nhiêu tình

1. Tôi nhớ như in những ngày tháng 4 của 50 năm trước. Càng về cuối, chiến sự nơi vùng tôi ở là Vĩnh Lợi, Bạc Liêu càng ác liệt. Chiều 28-4-1975, anh ruột tôi cùng 7-8 người cầm súng thoát ra vùng căn cứ cách mạng. Thế là ba tôi bị truy bắt, phải bỏ trốn. Má tôi nơm nớp lo sợ nhiều thứ, trong đó có việc trưởng ấp thông báo tôi sắp tới ngày được tuyển vào Phòng vệ dân sự vì đã đủ 16 tuổi. Lúc đó, tôi có cảm tưởng cuộc đời bị bó cứng đến ngạt thở trong sự vận động của chiến tranh.

Rồi ngày 30-4 đến, nó làm nổ tung cái bó cứng của thực trạng chiến tranh bằng một niềm vui không thể tả. Con người nặng nề thom thóp lo âu bỗng thấy nhẹ tênh như đi trên mây, trong gió. Lúc đó không ai bảo ai mà các làng xã lũ lượt kéo nhau vào chợ Bạc Liêu chơi. Tôi cũng hòa vào dòng người, đi chơi quên cả ăn mà không biết đói. Thị xã Bạc Liêu cờ đỏ, băng rôn rợp trời, người ta đi như trẩy hội. Những khuôn mặt sợ sệt, lo âu giờ biến đâu mất, chỉ còn những nụ cười rạng rỡ của niềm vui đời tự do, độc lập và không còn chết chóc, đau thương.

Niềm vui nào rồi cũng tan, nhất là ở một đất nước vừa hòa bình phải đối diện với thực tế khó khăn sau chiến tranh. Cánh đồng của làng tôi hồi đó giống như một cơ thể người bị thương rất nặng, lỗ chỗ hố đạn bom làm vỡ bờ vỡ đê; nước mặn từ sông Bạc Liêu tràn về ngập trắng đồng. Người nông dân đành bó tay, có năm để đất hoang, chịu đói. Đất nước bị cấm vận, không nhập được những thiết bị tân tiến cho việc cải tổ nền nông nghiệp nên vẫn “con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Hậu quả chiến tranh còn thể hiện một cách xót xa ở nguồn lực lao động bị mất đi rất nhiều. Sau hòa bình, ngoảnh đi ngoảnh lại bỗng thấy làng xóm mình thưa đi, nhiều người thân không trở về. Như nhà tôi, tuy ba má tôi sinh nhiều con, nhưng chị Hai, anh Ba tôi mất vì cuộc chiến; anh Hữu, anh Sang tiếp tục phục vụ cách mạng. Năm 1976, tôi được đi học Trường Công nông vì thuộc gia đình liệt sĩ.

Đùng một cái, năm 1976, miền Trung, miền Bắc thất mùa 2 năm liền rồi đến đồng bằng sông Cửu Long. Lúc đó chúng ta phải chia sẻ nguồn lực với cuộc chiến tranh vệ quốc ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và giúp nước bạn Campuchia… Từ đó tình trạng thiếu kém ở đồng bằng sông Cửu Long xảy ra trên diện rộng. Nhiều gia đình dọn rừng hoang trồng khoai lang, khoai mì và hưởng ứng chủ trương của Nhà nước thâm canh tăng vụ, trồng cao lương đỏ... Sau này, đọc tài liệu thấy lúc đó Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Minh Hải nêu mỗi năm phải giao về Trung ương 40 ngàn tấn gạo, dành ra 50 ngàn tấn để chia sẻ, cứu đói cho dân các tỉnh về tá túc. Sự thắt lưng buộc bụng thật đúng nghĩa, thể hiện cái tình, cái khí chất hào hiệp của con người Bạc Liêu vốn có từ xưa.

2. Năm 1980, tôi vào làm ở Báo Minh Hải. Từ đây, ít nhiều gì tôi cũng hiểu tình hình khởi đầu xây dựng của Bạc Liêu, của đồng bằng sông Cửu Long lúc đó. Mười năm (1975-1985) sự vận động phát triển cả vùng còn ì ạch, lúng túng, chưa có lối ra trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với cơ chế bao cấp. Mãi đến năm 1986, Đảng ta có chủ trương đổi mới. Đó là lúc dẹp bỏ việc ngăn sông cấm chợ; các hợp tác xã, tập đoàn… rã dần. Nông dân muốn được làm chủ, được tự do tính toán và chịu trách nhiệm trên mảnh ruộng của mình. Cơ chế tự do kinh doanh hình thành, các công ty xuất khẩu nở rộ. Thế là nông sản thế mạnh có đầu ra. Tôi nhớ lúc đó tôm, cua trở nên đắt giá bất thường. Cả làng, cả tỉnh cho nước mặn vào ruộng lúa để nuôi tôm tự nhiên. Đời sống cứ thế mà nâng lên…

Đến năm 1997, tỉnh Minh Hải chia tách thành hai tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu. Bạc Liêu lấy con tôm làm mũi nhọn và một nền sản xuất nông nghiệp toàn diện, kinh tế du lịch được phát huy đúng khi dựa vào văn hóa lịch sử, đẩy mạnh kinh tế biển tạo ra những dự án động lực. Người Bạc Liêu đã thoát khỏi cái thời “ăn để sống” mà tiến đến “sống để ăn” và ăn phải ngon, mặc phải đẹp. Từ năm 2010, Bạc Liêu tính đến chuyện xây dựng, hình thành bản sắc Bạc Liêu. Bước chuyển bộ này đã phục vụ lại phát triển kinh tế. Bạc Liêu có Quảng trường Hùng Vương, có Khu căn cứ Tỉnh ủy Cái Chanh, có cụm nhà Công tử Bạc Liêu, có nhà Ba nón lá, có Khu lưu niệm Đờn ca tài tử Nam bộ,… Hồi Festival Đờn ca tài tử Nam bộ ở Bạc Liêu năm 2014, nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo nổi tiếng đến và quan sát Bạc Liêu, nhận định: “Bạc Liêu là vùng đất văn hóa”.

50 năm nhìn lại có quá nhiều điều để nói, cái chung lẫn cái riêng. Khi tôi đặt bút viết bài báo này, mùa xuân Ất Tỵ đang dần đến. Không gian và thời gian gợi cảm đến thổn thức, cứ muốn nhìn lại cuộc đời mình. Tôi xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo tận đáy, gia đình không một ai tốt nghiệp cấp 2. Ấy vậy mà giờ đây tôi có nhà cửa đàng hoàng, con cháu quây quần, học hành đến nơi đến chốn, có công ăn việc làm ổn định. Tôi nhận ra một điều: Cuộc đời ban tặng cho tôi nhiều thứ: Cha mẹ cho truyền thống gia đình; làng quê góp tâm hồn, nhân cách; cơ quan, chính thể cho tôi tri thức, mục tiêu lý tưởng… Đứng trên đỉnh 50 năm ngày đất nước được thống nhất nhìn lại, chúng ta sẽ thấy cái tình đời chứa chan với bao ân tình nhân nghĩa.

Nhà văn PHAN TRUNG NGHĨA

Tin cùng chuyên mục