1. Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Năm 1967, Abơraham Molo, nhà nghiên cứu người Pháp đã thống kê được 250 định nghĩa. Theo GS Phan Ngọc, một nhà dân tộc học Mỹ đã dẫn ra ngót 400 định nghĩa về văn hóa.
Có người đã phải thốt lên: “Văn hóa chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó”. Sở dĩ như vậy vì văn hóa là một phạm trù rất rộng, cả vật chất lẫn tinh thần, cả tri thức, tín ngưỡng, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ, truyền thống và lối sống.
Văn hóa có bản sắc riêng lại có sự giao thoa, tiếp biến; kết tinh từ trong hoạt động của con người theo dòng chảy của lịch sử, đồng thời bổ sung những giá trị mới từ cuộc sống hiện tại.
Có thể trích ra đây 2 định nghĩa, mà theo tôi, phản ánh tương đối đầy đủ khái niệm văn hóa: Thứ nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng (định nghĩa của UNESCO đưa ra năm 1982 tại Mexico).
Thứ hai, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống của mỗi cá nhân và cộng đồng đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, cấu thành nên một hệ các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình (cựu Tổng Giám đốc UNESCO Frederico Mayor).
TP Huế có nhiều điểm du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước. Ảnh: THÁI AN
Đặc trưng của văn hóa là sự đa dạng, giá trị của văn hóa là sự khác biệt. Vì vậy, theo suy nghĩ của tôi, khái niệm “hội nhập” về văn hóa là không chuẩn xác. Trong văn hóa, chỉ có hợp tác và giao lưu; phát huy và quảng bá bản sắc văn hóa độc đáo của đất nước mình, dân tộc mình, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Văn hóa tuy không phải là tất cả nhưng lại có mặt trong tất cả, nó thấm đậm trong quá trình phát triển, trong mọi hoạt động, mọi hành vi, ứng xử của con người.
Di sản văn hóa có di sản vật thể và di sản phi vật thể. Di sản, nhất là di sản phi vật thể có cái cái tốt, tích cực, cũng có cái không tốt, tiêu cực. Người có tư duy lành mạnh, hành động đúng đắn là biết phát huy và tạo ra những di sản tốt đẹp, khắc phục và loại bỏ những di sản xấu.
2. Văn hóa đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển nói chung và kinh tế nói riêng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Văn hóa soi đường cho Quốc dân đi”. Cương lĩnh chính trị được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc, là sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Và, dân tộc nào bị thống trị về văn hóa ngoại bang thì dân tộc đó không thể có độc lập thật sự. Nước ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ hàng ngàn năm; các dân tộc ở phía Nam sông Dương Tử đều bị “Hán hóa” nhưng dân tộc ta không bị “Hán hóa” là do sức sống mãnh liệt của văn hóa người Việt.
“Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới, những công trình vượt trội lên bản thân” (Tuyên bố của UNESCO về những chính sách văn hóa).
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, văn hóa không phải là cái thứ hai, “không phải là cái ăn theo, không phải là sự phản ánh thụ động sự phát triển của kinh tế”.
Văn hóa là một nhân tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế. Trong thời đại của một nền văn minh mới, động lực của tăng trưởng kinh tế không chỉ ở vốn, càng không phải ở tài nguyên mà chủ yếu ở trí tuệ, tiềm năng sáng tạo, tức là ở nguồn lực con người, là ở trong văn hóa. Và, chúng ta khẳng định: Văn hóa là động lực của phát triển.
Kinh doanh, không chỉ là hoạt động kinh tế mà bản chất là hoạt động văn hóa. Hoạt động đó đáp ứng nhu cầu của con người, cả người sản xuất và người tiêu dùng, cả người mua lẫn người bán, mang đến cho con người sự thỏa mãn, sự tiện nghi.
Đối với người sản xuất là sự sáng tạo, đối với người mua là đáp ứng nhu cầu để phục vụ cho cuộc sống và rốt cuộc cũng là để sáng tạo. Sự đáp ứng gắn chặt với cách đáp ứng. Nhiều khi cách đáp ứng còn quan trọng hơn sự đáp ứng: “Của cho không bằng cách cho”. Do đó, trong bản chất, nó là hoạt động văn hóa.
3. Văn hóa doanh nghiệp có những chuẩn mực chung nhưng lại mang bản sắc riêng, tạo sự khác biệt giữa doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, văn hóa doanh nghiệp là một trong nhiều yếu tố làm nên thương hiệu của doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nhân là các giá trị văn hóa mà người chủ doanh nghiệp hướng đến trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Văn hóa doanh nhân đóng vai trò chủ đạo hình thành văn hóa doanh nghiệp.
Cách đây một thế kỷ, chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927) đã nói về những điểm yếu của doanh nhân Việt Nam: “Người mình không có thương phẩm, không có thương hội, kẻ gian mượn tiếng lập hội làm kế vơ vét, thành ra thương hội chưa lập đã vỡ, cổ đông chưa họp đã tan. Không có tín thực. Cái ám muội của nhà buôn ta không thể nào tả hết được, chỉ xem ngạn ngữ ta rằng “thực thà cũng thể lái buôn” thời đủ biết đức tính của lái buôn vậy. Cũng chính bởi cái lòng không tín thực ấy mà làm trở lực cho hàng hóa của ta không thể bán mạnh bằng hàng hóa các nước được”.
Không có kiên tâm, không có nghị lực.
Không biết trọng nghề. Không có thương
Kém đường giao thiệp: xem các nước đều có học tiếng Anh là tiếng vạn quốc thông dụng, để đi đến nước nào cũng được tiện lợi và in những sách chiêu hàng phân phát cho nhiều người tiêu dùng.
Không biết tiết kiệm: làm ít, tiêu nhiều; dư dật được ít nào đều bị cái phong trào xa xỉ nó cuốn đi cả. Chỉ choáng bề ngoài mà xấu bề trong, tốt bộ vỏ mà không có ruột. Trách nào vốn liếng mỗi ngày chẳng kém, sinh kế ngày càng quẫn bách.
Khinh nội hóa, sính hàng ngoại khiến cho lợi quyền mất cả ra ngoài, trách gì nghề buôn mình kém các nước. Cả mười điều nhận xét của cụ Lương Văn Can về nghề buôn của nước ta cho đến nay đều xác đáng.
Tất nhiên, không phải mọi doanh nhân nước ta đều có những yếu kém ấy. Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tiến bộ và trưởng thành lên nhiều nhưng những điều cụ Lương Văn Can nói vẫn tồn tại ở không ít các doanh nghiệp, doanh nhân nước ta. Đây là một di sản không tốt cần loại bỏ.
Trên tổng thể, khắc phục những yếu kém mà cụ Lương Văn Can chỉ ra là tạo nên một hệ giá trị cho văn hóa doanh nghiệp. Tuy nhiên, thời đại thay đổi, quan niệm về hệ giá trị cũng có những phát triển mới, có những đặc trưng mới không mâu thuẫn với những điều chí sĩ Lương Văn Can đã đề cập.
4. Với bước tiến thời đại mới nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng văn hóa kinh doanh cũng cần thay đổi. Đó là: Hai bên cùng thắng: lấy sự hài lòng của khách làm cơ sở bảo đảm lợi ích của mình; Cạnh tranh lành mạnh và tăng cường hợp tác; Phát triển bền vững; Thượng tôn pháp luật, bảo đảm kỷ luật kỷ cương đi đôi với phát huy dân chủ và khả năng sáng tạo của mỗi thành viên, đặt yêu cầu cao cho mỗi thành viên, động viên họ đối đầu với thách thức vì có dám đối đầu với thách thức mới biết mình là thế nào và có thể làm được những gì; Đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và phải coi trách nhiệm xã hội là một nội dung của văn hóa doanh nghiệp, một yếu tố tạo ra thương hiệu.
Từ các nguyên tắc chỉ đạo này, phải phấn đấu theo các nội dung sau: (i) Kinh doanh trung thực, giữ vững chữ tín, tạo niềm tin cho đối tác (đây là nội dung cực kỳ quan trọng). (ii) Có tư duy chiến lược và tầm nhìn dài hạn để định hướng phát triển lâu dài, có khả năng phản ứng trước khi thị trường biến động (điều rất cần trong bối cảnh thế giới vận động rất nhanh và thay đổi không ngừng, cũng là để đào tạo người nối nghiệp theo định hướng đã lựa chọn, đối với những công ty gia đình thì nên phát triển theo cách “cha truyền con nối”. Không coi kinh doanh chỉ là một nghề để kiếm sống mà là một hoạt động sáng tạo, một phương án tự hoàn thiện mình với chữ “Người” nên phải kiên trì, không “nhảy cóc”; dám chấp nhận sai lầm và biết giới hạn những sai lầm; chấp nhận lỗ trong một thương vụ cụ thể để giữ chữ tín với đối tác. (iii) Coi tiết kiệm không chỉ là cách thức giảm chi phí, tăng lợi nhuận mà là một phong cách và văn hóa sống, giúp khách hàng được hưởng lợi tốt hơn, qua đó mà mở rộng thị trường, phát triển khách hàng. Hơn lúc nào hết doanh nhân cần nâng cao ý thức về lòng tự hào đối với sản phẩm mình, doanh nghiệp mình, làm với tất cả tâm huyết, yêu nghề để có sản phẩm tốt nhất, hoàn thiện nhất có thể; bảo đảm chất lượng, giá cả hợp lý và dịch vụ hậu mãi vượt trội. Trong bối cảnh hiện nay cần tăng cường hợp tác và liên kết, tích cực tương tác với các đối tác trong và ngoài nước, hình thành mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Cần hiểu rằng, hợp tác và liên kết là yêu cầu tự thân của cuộc sống, là nhân sinh quan, “tiêu chuẩn thẩm mỹ hàng đầu” của con người hiện đại trong thời đại toàn cầu hóa. Chú ý tổ chức các hoạt động ngoại khóa (văn nghệ, thể dục thể thao, dã ngoại...). Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp và cũng là giải pháp gắn kết các thành viên trong doanh nghiệp.
Xác định đúng nhưng ngắn gọn “slogan” (khẩu hiệu thương mại) của doanh nghiệp để mỗi người hướng theo mục tiêu này mà phấn đấu. Lưu ý “slogan” không phải là vĩnh viễn, cũng phải thay đổi phù hợp với mục tiêu mới khi tình hình đòi hỏi. Có một thực tiễn là, với một “slogan” sử dụng quá lâu, không được bổ sung và phát triển những ý tưởng mới khi tình hình thay đổi sẽ làm nhiều thành viên trong doanh nghiệp không còn nhớ đến.
Cần xây dựng thương hiệu bằng cách tạo ra bản sắc riêng, sự độc đáo trong sản phẩm và dịch vụ của mình.
Để xây dựng văn hóa doanh nghiệp cần nhớ: Thói quen hình thành tính cách, tính cách làm nên số phận. Thói quen có thói quen tốt và thói quen xấu. Tạo ra thói quen tốt không dễ, loại bỏ một thói quen xấu còn khó hơn. Vì vậy, phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương, khen thưởng kịp thời, xử phạt nghiêm minh. Kỷ luật sẽ áp chế thói quen xấu, giúp cho cái tốt chiến thắng. Doanh nhân (chủ hoặc người đứng đầu doanh nghiệp) có ảnh hưởng quyết định đến xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nhân phải có ý thức xây dựng, đề cao văn hóa kinh doanh, văn hóa của doanh nghiệp mình.
Về bản chất, lãnh đạo và quản lý là 2 hoạt động khác nhau. Ở ta thường đồng nhất 2 hoạt động này. Cần cố gắng tách bạch đến mức có thể, nhất là trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Trong hoạt động này, người lãnh đạo đưa ra ý tưởng, truyền cảm hứng đến mọi người, cuốn hút họ đi theo, thực hiện ý tưởng và các nội dung đã xác định. Người quản lý tổ chức thực hiện ý tưởng đó, lập quy trình thực hiện có hiệu quả, giám sát việc thực thi, đề ra các giải pháp phát huy kết quả, khắc phục những sai phạm, yếu kém…