Vấn đề của nợ công là khả năng trả nợ

Một vấn đề được nhiều người dân quan tâm tuần qua là con số nợ công được Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra. Theo đó, nợ công của Việt Nam đến cuối năm 2014 là khoảng 110 tỷ USD, tương đương 59% GDP (bình quân mỗi người dân gánh khoảng 1.200 USD nợ công). Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.
Vấn đề của nợ công là khả năng trả nợ

PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam:

Một vấn đề được nhiều người dân quan tâm tuần qua là con số nợ công được Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra. Theo đó, nợ công của Việt Nam đến cuối năm 2014 là khoảng 110 tỷ USD, tương đương 59% GDP (bình quân mỗi người dân gánh khoảng 1.200 USD nợ công). Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với PGS-TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.

Vấn đề của nợ công là khả năng trả nợ ảnh 1

PGS-TS Trần Đình Thiên

- Phóng viên: Theo WB, nghĩa vụ thanh toán nợ công từ 2010 là 22% đến năm 2014 tăng lên đến 26% tổng thu ngân sách, chi trả lãi vay chiếm 7,2% chi ngân sách. Con số này nói lên điều gì, và tỷ lệ này nên là bao nhiêu thì hợp lý, thưa ông?

>> PGS-TS Trần Đình Thiên: Đó cũng chỉ là các con số để nêu lên về nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam. Con số đó, tại Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân vừa qua cũng đã đề cập, thậm chí cả các diễn đàn trước đó. Lập luận về nợ công hiện nay thường được nêu ở 2 chỉ số, đó là so với GDP xem tổng nợ công/GDP là bao nhiêu từ đó xem ngưỡng nợ công ra sao, có ý nghĩa thế nào; tiếp đến là nghĩa vụ trả nợ để biết mỗi năm nghĩa vụ trả nợ tương đương bao nhiêu phần trăm thu ngân sách.

Từ trước đến nay, nhiều người vẫn chỉ chú ý đến việc so sánh nợ công với GDP. Có thể đó là do thông tin tuyên truyền hay tập trung vào con số đó, phần khác là do con số có trung tính cao hơn nhiều. Nhưng thực tế, việc so sánh với GDP “chả nói được gì hết” vì cao hay thấp chỉ có ý nghĩa tương đối và mang tính cảnh báo. Chẳng hạn như Việt Nam đặt ra ngưỡng nợ công không vượt 65% GDP thì có ý nghĩa là khi đến con số đó phải coi chừng, mọi hoạt động vay cần phải cân nhắc vì có khả năng rủi ro cao hơn khi vượt 65%. Con số đó không có nghĩa là khi vượt qua thì bị vỡ nợ.

- Ông có thể nói rõ hơn về khả năng thế nào thì dẫn đến một quốc gia có thể vỡ nợ do nợ công?

Như Hy Lạp, dù thiếu có 1,5 tỷ USD đến ngày trả nợ cũng đã bị tuyên bố vỡ nợ. Điều đó có nghĩa thời điểm trả nợ rất quan trọng. Do đó, chúng ta cũng phải rất chú trọng đến năng lực thanh toán quốc gia, nó cũng giống như nợ xấu của doanh nghiệp. Bởi với nước ngoài, dù anh có vay 100 món nợ nhưng có 1 món nợ anh không trả lãi đúng hạn thì sẽ tuyên bố nợ của anh tất cả là nợ xấu, vì họ cho rằng khả năng trả nợ như vậy thì bất cứ món nợ nào của anh đều có vấn đề.

Chính phủ đã ban hành Chiến lược quản lý nợ công giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó quy định nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% tổng thu ngân sách hàng năm. Điều đó có nghĩa, con số 25% chính là giới hạn đỏ. Bởi vì nếu vượt qua ngưỡng đó, nguy cơ không trả được nợ tăng lên rất nhanh và sẽ dẫn đến tình huống vỡ nợ. Chính vì lẽ đó, nghĩa vụ trả nợ 26% được nêu ra là cao.

- Vậy ở các nước, nghĩa vụ trả nợ nằm ở con số nào, thưa ông?

 

* Chúng ta phải có chiến lược tăng cường khả năng trả nợ, chứ không phải là câu chuyện tiết kiệm. Nhìn vào năng lực trả nợ để có biện pháp. Nếu năng lực trả nợ yếu thì phải tăng lên và kể cả nếu phải đi vay để tạo khả năng trả nợ thì vẫn phải đi vay. Để tăng khả năng trả nợ thì phải tăng nguồn thu. Nghĩa là phải làm sao để khu vực doanh nghiệp khỏe lên.

 

Tùy vào mỗi nước nhưng với Việt Nam, con số đó xây dựng dựa trên các chuẩn mực và khi đến ngưỡng đó là nguy hiểm. Bởi vì chi ngân sách của chúng ta lớn, trong đó có phần trả nợ. Nếu phần trả nợ càng ít thì số dành cho chi tiêu quốc gia, mang lại lợi ích cho phát triển càng nhiều. Chính vì lẽ đó, xin được nhắc lại, vấn đề của nợ công không nằm ở con số là bao nhiêu, mà là ở xu hướng tăng trưởng của nợ công và khả năng trả nợ. Với WB, với tốc độ tăng nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam có vấn đề nghiêm trọng và họ phải đưa ra cảnh báo. Thực ra đây cũng là điều mà các chuyên gia của Việt Nam cũng đã cảnh báo từ sớm. Điểm lo ngại là nó còn sẽ tăng tiếp và có thể năm sau lên đến 30%.

- Việc đi vay để đảo nợ được nhìn nhận không phải là cách để sử dụng thường xuyên?

Đó là thao tác mang tính kỹ thuật rất nhiều. Ví dụ như vay nước ngoài 1 tỷ USD năm 2014, trong đó có dành cho đảo nợ. Cách vay kỳ hạn dài với lãi suất thấp đã làm giảm áp lực trả nợ khi kéo giãn khoản nợ ra. Việc này cho thấy chúng ta có ưu điểm là vẫn có khả năng đi vay với lãi suất thấp, dài hạn, cho thấy nhà đầu tư tin vào triển vọng của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy áp lực trả nợ hiện nay đang căng thẳng vì đang chiếm đến 26% tổng thu ngân sách, thậm chí có thể hơn, do đó Chính phủ phải vay đảo nợ. Đảo nợ chỉ là cách để đẩy các rủi ro ra xa hơn, chứ không tiêu diệt được rủi ro đó. Dù có những tác dụng nhưng không nên chú trọng vào cách vay để đảo nợ. Điều đáng quan tâm là bên cạnh việc đảo nợ thì mục tiêu khác quan trọng hơn là tiền đó về để làm gì. Phải tạo ra năng lực trả nợ, hỗ trợ doanh nghiệp.

- Hiện nay, Việt Nam đang chú trọng vào vay trong nước hơn là vay nước ngoài. Có quan điểm cho rằng điều đó ít chịu rủi ro. Ông nghĩ sao về điều này?

Cơ cấu nợ của Việt Nam có sự thay đổi. Đó là tỷ trọng nợ trong nước tăng lên. Đây là điều cần bình luận thêm. Chúng ta thường hay lấy ví dụ Nhật Bản là vay nợ trong nước thì không bị vỡ nợ vì vỡ với dân không lo. Nhật Bản có tỷ lệ nợ công lên đến 250% GDP, thậm chí hơn nhưng vẫn an toàn. Vì sao? Vì đó là nợ nội địa của Nhật Bản có lãi suất 0% vì họ không vay mà mượn tiền của dân. Người dân Nhật Bản vì tổ quốc họ chấp nhận chuyện lãi suất 0%, giống như để Chính phủ giữ tiền hộ. Người dân Nhật Bản có triết lý, thái độ riêng của họ với đất nước. Cùng với kỳ hạn vay dài, Chính phủ Nhật Bản không chịu áp lực về trả lãi suất, nợ. Việt Nam đã chú trọng vào vay trong nước nhưng kỳ hạn vay rất ngắn mà lãi suất lại cao. Đó là điều nguy hiểm.

Với chúng ta, câu hỏi là nếu không trả được nợ trong nước có rủi ro không? Câu trả lời là cũng sẽ rất rủi ro vì tạo ra sự bất ổn trong xã hội. Bởi vì thế, trong câu chuyện vay nợ trong nước, không thể so sánh Việt Nam với Nhật Bản. Tuy nhiên, câu chuyện đặt ra là chi tiêu Chính phủ ra sao để đỡ vay nhất. Bởi vì vay trong nước sẽ tạo ra sự chèn lấn với khu vực tư nhân khi hút tiền vào trái phiếu và cạnh tranh lãi suất cao sẽ khiến khu vực tư nhân gặp khó khăn.

- Có những ý kiến cho rằng đổ lỗi nợ công tăng nhanh có phần từ việc vay nguồn vốn viện trợ phát triển (ODA), ông nghĩ sao?

ODA cũng như tất cả các nguồn vốn khác, điều quan trọng là sử dụng như thế nào, thậm chí nguồn ODA còn có nhiều lợi thế so với các nguồn khác. Có thể lấy ODA như một ví dụ để nói về nợ công nhưng nói về nợ công chỉ nhằm vào ODA là không ổn.

- Xin cảm ơn ông!

NGỌC QUANG


Vốn FDI từ ASEAN sẽ tăng mạnh

Con số hơn 54,6 tỷ USD mà các nhà đầu tư ASEAN “rót” vào Việt Nam trong 20 năm qua (kể từ khi Việt Nam gia nhập khối này) sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới, khi hàng loạt dự án quy mô lớn được cấp phép đầu tư và khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được hình thành vào cuối năm nay. Một động thái được kỳ vọng là việc Tập đoàn Dầu khí Thái Lan (PTT) đang nỗ lực tìm kiếm đối tác nội địa để tham gia dự án lọc hóa dầu Victory (Nhơn Hội, Bình Định). PTT và đối tác khác trong dự án rất cần có đối tác phù hợp để đẩy nhanh các bước đi tiếp theo nhằm sớm triển khai dự án lọc hóa dầu có quy mô lớn nhất hiện nay trong cả nước. Nếu dự án với quy mô vốn lên tới 22 tỷ USD này được chấp thuận, thì vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam sẽ gia tăng đáng kể và Thái Lan (hiện đang đứng thứ 10 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam với 6,8 tỷ USD vốn đăng ký) sẽ “bứt tốc” ngoạn mục, trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất.

Bên cạnh đó, dòng vốn Thái Lan vào Việt Nam còn đến từ nhiều nhà đầu tư lớn khác. Ngân hàng Thương mại Siam Thái Lan (SCB) đã được phép thành lập chi nhánh tại Việt Nam trên cơ sở mua lại, tiếp nhận tài sản, công nợ của Ngân hàng liên doanh Việt - Thái (VSB). Tập đoàn Berli Jucker (BJC) cũng nắm trong tay quyền điều hành Tập đoàn Phú Thái từ năm 2013. BJC còn mua lại cổ phần của FamilyMart (Nhật Bản) trong liên doanh với Phú Thái để sở hữu chuỗi 95 cửa hàng tiện lợi BJC Mart. Từ năm 2013, Tập đoàn Siam Cement Group (SCG) Thái Lan cũng đã dốc tiền mua lại nhà sản xuất vật liệu xây dựng hàng đầu Việt Nam là Prime Group; còn Central Group thì thông qua Công ty thành viên Power Buy mua cổ phần của hệ thống điện máy Nguyễn Kim…

Tuy nhiên, cho đến nay Thái Lan chỉ đứng ở vị trí thứ ba trong số các nền kinh tế thành viên ASEAN có đầu tư tại Việt Nam. đứng đầu danh sách là Singapore, có vốn đăng ký gần 33,2 tỷ USD và Malaysia với 10,9 tỷ USD. Tên tuổi của các nhà đầu tư Singapore từ lâu đã không còn xa lạ với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Đến nay, dự án lớn nhất của đảo quốc Sư tử tại Việt Nam là dự án Nam Hội An, vốn đầu tư 4 tỷ USD, ở Quảng Nam, mặc dù tỷ lệ góp vốn của VinaCapital (Singapore) đã giảm đáng kể sau khi Chow Tai Fook (Hồng Công) và Sun City (Macao) tham gia dự án. Một nhà đầu tư Singapore khác là Sembcorp cùng với đối tác Becamex Bình Dương thì liên tục mở các khu công nghiệp - đô thị - dịch vụ VSIP khắp từ Bình Dương tới Bắc Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi và mới đây là Hải Dương và Nghệ An. Sembcorp cũng đang đầu tư vào dự án nhiệt điện Quảng Ngãi, với vốn đầu tư 2,5 tỷ USD. Cũng phải nói thêm rằng, các dự án trị giá hàng tỷ USD của Samsung ở Thái Nguyên, Bắc Ninh và TPHCM được đầu tư qua công ty con đặt tại Singapore của tập đoàn lớn nhất Hàn Quốc này. Trong khi đó, những dự án đình đám nhất đến từ Malaysia là dự án khu đô thị Đại học quốc tế Berjaya Việt Nam (vốn đầu tư 3,5 tỷ USD), hay dự án nhiệt điện BOT Hải Dương (vốn đầu tư 1,84 tỷ USD)…

Theo các nhà phân tích kinh tế, khi AEC được thành lập vào cuối năm nay, dòng chảy vốn FDI trong các quốc gia ASEAN dự báo được đẩy nhanh hơn. Nhưng cơ hội lớn này cũng sẽ tạo ra cạnh tranh rất lớn trong nội khối, nhất là với Thái Lan, Indonesia, Myanmar, Campuchia, Lào... trong thu hút đầu tư từ ASEAN cũng như các nền kinh tế khác trên toàn cầu nói chung.

ANH PHƯƠNG

Tin cùng chuyên mục